1. LỄ ÂM PHẦN LONG MẠCH, SƠN THẦN THỔ PHỦ
Văn khấn lễ âm phần Long Mạch, Sơn thần thổ phủ nơi mộ
VĂN KHẤN THẦN LINH (NGOÀI MỘ)
Bạn đang đọc: Văn khấn thần linh (ngoài mộ) vào tiết Thanh minh
(VÀO TIẾT THANH MINH)
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần:
– Con kính lạy các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.
Hôm nay là ngày: …………………………………………………
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Nhân tiết Thanh minh (hoặc là nhân tiết thu, tiết đông, hoặc nhân ngày lành tháng tốt.. .) tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước án, kính mời chư vị Tôn thần lai lâm chiếu giám.
Gia đình chúng con có ngôi mộ của…………………..
Táng tại xứ này, nay muốn sửa sang xây đắp (hoặc tảo mộ, bốc mộ…) vì vậy chúng con xin kính cáo các đấng Thần linh, Thổ công, Thổ phủ Long Mạch, Tiền Chu Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ và Chư vị Tôn thần cai quản trong khu vực này.
Chúng con kính mời các vị chư Thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho vong linh được an nhàn yên ổn, siêu thoát.
Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật ách, tám tiết hưởng thái bình.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
2. LỄ VONG LINH NGOÀI MỘ
Nếu viết văn khấn ra giấy thì đọc, xong hoá ngay cùng tiền vàng. Trong khi đợi tuần nhang thổ địa thì mọi người trong mái ấm gia đình đi viếng thăm những ngôi mộ của mái ấm gia đình mình, thắp lên mộ mấy nén. Đứng trước ngôi mộ và khấn :
VĂN KHẤN THẦN LINH (NGOÀI MỘ)
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
-Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương
-Con Kính lạy Hương linh………………(Hiển khảo, Hiển tỷ hoặc Tổ Khảo)
Hôm nay là ngày. ………………………..………….
Nhân tiết:…………………………………………….
Tín chủ (chúng) con ……………………………
Ngụ tại:……………………………………………….
Chúng con và toàn thể gia đình con cháu,
nhờ công ơn võng cực,
nền đức cao dầy,
gây dựng cơ nghiệp của…………..,
chạnh lòng nghĩ đến âm phần ở nơi hoang vắng,
Tín chủ con thành tâm sắm lễ,
quả cau lá trầu,
hương hoa trà quả,
thắp nén tâm hương
kính dâng trước mộ,
kính mời chân linh…….. .. ……… ….. . .lai lâm hiến hưởng.
Chúng con xin phép được sửa sang phần mộ, bồi xa, bồi thổ, cho được dầy bền, tu sửa minh đường hậu quỷ cho thêm vững chắc.
Nhờ ơn Phật Thánh phù trì,
đội đức trời che đất chở,
cảm niệm Thần linh phù độ,
khiến cho được chữ bình an,
âm siêu dương thái.
Con cháu chúng con xin vì chân linh …..…..
Phát nguyện tích đức tu nhân,
làm duyên, làm phúc
cúng dâng Tin Bảo,
giúp đỡ cô nhi quả phụ,
tế bần cứu nạn,
hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên Tổ.
Cúi xin linh thiêng chứng giám,
thụ hưởng lễ vật,
phù hộ độ trì con cháu,
qua lại soi xét cửa nhà.
Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc,
điều lành mang đến,
điều dữ xua đi.
Độ cho gia đạo hưng long,
quế hờ tươi tốt,
cháu con vinh hưởng lộc trời,
già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Ý nghĩa : Tết Thanh minh mang ý nghĩa cội nguồn, nhắc tất cả chúng ta không quên hướng về quê cha đất tổ. Người dân nhiều nơi phối hợp Tết Thanh minh với Tết Hàn thực, tức ngày bánh trôi bánh chay, được tổ chức triển khai vào ngày 3 tháng Ba âm lịch .
Tuy nhiên, trên thực tế Tết Thanh minh đi theo quy luật vận hành của mặt trời – lịch dương, chứ không theo lịch mặt trăng – lịch âm, thường rơi vào ngày 4 hoặc ngày 5 của tháng Tư dương lịch.
Phong tục làm cỏ những phần mộ ( lễ tảo mộ ), sửa sang, thắp hương, đặt hoa quả tôn kính tưởng niệm ông bà tổ tiên là những hoạt động giải trí không hề thiếu trong dịp nghỉ lễ quan trọng này .
Tết Thanh minh được bắt nguồn từ Trung Quốc. Chuyện kể rằng, đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công, nước Tấn, gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở. Bấy giờ có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo vua trợ giúp mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lòng cảm kích vô cùng. Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, cùng nhau trải nếm bao nhiêu khó khăn nguy khốn. Về sau, Tấn Văn Công giành lại được ngôi báu trở lại làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công, nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, chứ không có công lao gì đáng nói. Vì vậy, ông về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn. Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, rốt cục cả hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm ( khoảng chừng từ mồng 3.3 đến mồng 5.3 âm lịch hàng năm ). Từ đó ngày mùng 3.3 âm lịch hằng năm được coi là ngày Tết Hàn thực, nhằm mục đích tưởng niệm đến công ơn dưỡng dục của những người đã khuất. Từ thời Lý nhân dân ta đã tiếp đón tết Hàn thực nhưng ý nghĩa của ngày tết này đã đổi khác và mang đậm sắc tố truyền thống cuội nguồn, tương thích với tâm ý cũng như đời sống thường nhật của người dân nước Việt. Vào ngày tết Hàn thực, người Việt không kiêng lửa, mọi việc nấu nướng vẫn được triển khai, chỉ có điều người Việt dùng bánh trôi – bánh chay cho tết Hàn thực với ý nghĩa tượng trưng đó là những thức ăn nguội – hàn thực. Vì vậy người Việt còn gọi tết Hàn thực bằng một tên gọi khác là tết bánh trôi – bánh chay .
Sưu tầm ./.
Source: https://suanha.org
Category : Phong thủy