Tết Lào (tiếng Lào: ປີໃຫມ່ລາວ; phiên âm: Bunpimay, Pi Mai, Pee Mai, Koud Song Kane hay Bunhot Nậm) diễn ra từ 14 đến 16/4 hằng năm. Đây là Tết theo Phật lịch vì ở Lào, đạo Phật từ lâu đã trở thành quốc đạo. Người dân té nước để cầu may, bình yên cho cả năm. Cũng như người dân Thái Lan và Campuchia, lễ hội Bunpimay mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, ấm no hạnh phúc thanh khiết hóa cuộc sống của con người. Bunpimay là dịp để nuôi dưỡng và hun đúc nghệ thuật dân tộc.
Hiện nay Tết Lào được tổ chức triển khai từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 dương lịch hàng năm, khi khung trời thanh cao, những dòng sông lớn đều dồi dào nước tượng trưng cho một năm mới nhiều lộc. [ 1 ]
Tái hiện lại các nhân vật huyền thoại trong ngày Tết
Bạn đang đọc: Tết Lào – Wikipedia tiếng Việt
Tết Bunpimay diễn ra trong ba ngày. Ngày tiên phong cũng là ngày sau cuối của năm cũ, người ta lau dọn thật sạch trong nhà ngoài ngõ. Ngày thứ hai không được tính đến vì đó là giao thời giữa năm cũ và năm mới. Hội khởi đầu vào ngày sau cuối với nhiều hoạt động giải trí tưng bừng khắp nơi. Ngày cuối cũng là ngày kết thúc tuần trăng. Trong ba ngày này người Lào được nghỉ, không thao tác và cũng không có những hoạt động giải trí kinh doanh .
Đầu tiên Tết Lào được tổ chức vào ngày đầu tiên của tháng Một[cần dẫn nguồn]. Tuy nhiên, thời điểm đó vào mùa đông, không thích hợp cho phong tục té nước nên ngày này đã được chuyển sang thời điểm nóng nhất trong năm. Đây cũng là thời gian ngày thường dài hơn đêm, ngày dài nhất có thể đến 14 tiếng 24 phút.
Theo những sử gia Lào, tổ tiên người Lào đến từ phía Nam Trung Quốc và chịu tác động ảnh hưởng thâm thúy của văn hóa truyền thống Ấn Độ nên lấy ngày, tháng, năm theo Ấn Độ. Riêng Tết Lào là lấy theo người Môn và người Khmer. Người Ấn Độ coi trọng thời gian ngày dài hơn đêm và gọi đó là Watthanasagn, có nghĩa là ” nhiều bóng râm “. Khi đó mặt trời mọc ở phía bắc và mở màn mùa mưa, thuận tiện cho trồng trọt hơn những mùa khác trong năm. Ngoài ra, Tết Lào còn xuất phát từ một truyền thuyết thần thoại về cuộc đấu trí giữa Thammabane và Kabinlaphom .
Thời xa xưa, từ trước khi Phật giáo ra đời, có một chàng trai con nhà phú nông tên là Thmmaphala hay còn gọi là Thammabane rất nhanh trí và hiểu được tiếng chim. Thammabane thường di khắp nơi để truyền dạy kiến thức.
Thời gian đó người dân vẫn coi Kabinlaphom, thần của khung trời là người uyên bác nhất. Khi biết tin dưới trần gian có Thammabane là một người rất hiểu biết, Kabinlaphom muốn thi tài với Thammabane. Ông ta đặt ra ba câu hỏi để Thammabane vấn đáp, nếu Thammabane vấn đáp được thì Kabinlaphom sẽ phải dâng đầu mình và ngược lại .
Một loại chim thần nửa người nửa chim được thấy ở cả ba nước Lào – Campuchia – Vương Quốc của nụ cườiBa câu hỏi đó là :
Thammabane không thể trả lời ngay, nhưng anh xin Kabinlaphom thêm 9 ngày nữa. Thammabane ra sức suy nghĩ nhưng vẫn không tìm được đáp án. Ba ngày trôi qua, đã quá mỏi mệt, anh ngủ gật dưới gốc cọ thì nghe hai vợ chồng đại bàng nói chuyện trên đầu mình. Đại bàng vợ hỏi: “Ngày mai chúng ta sẽ ăn gì đây?”. Đại bàng chồng trả lời: “Đừng lo, chúng ta sẽ ăn thịt Thammabane, vì anh ta sẽ không thể trả lời được 3 câu hỏi của Kabinlaphom và sẽ bị giết“. Khi đại bàng vợ hỏi về câu trả lời, đại bàng chồng đã nói:
Nhờ biết được tiếng chim, Thammabane nghe rõ ba câu vấn đáp và sau đó trở lại gặp Kabinlaphom. Theo cam kết, Kabinlaphom phải chặt đầu mình. Tuy nhiên, trước khi chặt đầu, Kabinlaphom dặn bảy cô con gái của mình giữ gìn cái đầu cẩn trọng, vì nếu đầu ông ta rơi xuống đất sẽ xảy ra hỏa hoạn, ném lên trời sẽ gây ra hạn hán còn ném xuống biển thì biển sẽ khô cạn. Bảy con gái của Kabinlaphom đặt đầu cha trên một cái đĩa vàng và thờ ở động Khanthoumali, núi Phoukhaokailat. Hàng năm những cô lần lượt đến đây rửa sạch đầu cha và đặt trở lại vào động. [ 2 ]Tên của bảy cô con gái Kabinlaphom là Thoungsatheve, Khorakham, Rarksa, Mountha, Kirinee, Kinitha và Manothone. Tất cả bảy cô được gọi chung là Nang Sangkhane .
Vào ngày tiên phong của Tết Lào, người ta quét dọn, vệ sinh nhà cửa thật sạch, sẵn sàng chuẩn bị nước thơm và hoa. Nước thơm là một hỗn hợp gồm nước, nghệ, bồ kết nướng, hoa và dầu thơm. Nước được ướp hương hoa hoặc hương liệu vạn vật thiên nhiên. Về sau người ta còn cho cả kem và bột .Vào buổi chiều, người dân trong làng tập trung chuyên sâu ở chùa để làm lễ cúng Phật, cầu nguyện, nghe những nhà sư giảng đạo. Sau đó, người ta rước tượng Phật ra một gian riêng trong ba ngày và Open để mọi người hoàn toàn có thể vào tắm Phật. Nước thơm sau khi tưới lên những tượng Phật sẽ được hứng lại đem về nhà để sức vào người làm phước. Người ta còn té nước vào những nhà sư, chùa và cây cối xung quanh chùa. Để tỏ lòng tôn kính người trẻ tuổi té nước những người lớn tuổi để chúc sống lâu và thịnh vượng. Bạn bè té nước vào nhau. Họ không chỉ té nước vào người mà còn vào nhà cửa, đồ thờ cúng, súc vật và công cụ sản xuất. Người Lào tin rằng nước sẽ giúp gột rửa điều xấu xa, bệnh tật và cầu chúc năm mới sống lâu, thật sạch và mạnh khỏe. Ai bị ướt nhiều là niềm hạnh phúc nhiều .
Tục lệ té nước (tạt nước) trong ngày tết của Lào cũng có phần do thời tiết nóng bức (tháng 4 là thời điểm nóng nhất ở Lào). Trước khi té nước cho nhau, người ta thường dành cho nhau những lời chúc tốt lành.
Cát được đưa đến sân chùa và trang trí trước khi dâng cho những nhà sư để tỏ lòng tôn kính. Có hai cách để làm tháp bằng cát. Người ta hoàn toàn có thể làm ngay tại bãi biển hoặc dâng cát cho chùa. Tháp cát được trang trí bằng cờ, hoa, dây vải trắng và vẩy nước thơm. Các tháp cát này tượng trưng cho núi Phoukaokailat nơi bảy con gái của Kabinlaphom thờ đầu cha mình và được dâng cúng để cầu sức khỏe thể chất, niềm hạnh phúc trong năm mới .
Các loài động vật hoang dã như rùa, cá, cua, chim, lươn và những con vật nhỏ khác được phóng sinh. Người ta tin rằng trong dịp Tết ngay cả động vật hoang dã cũng cần được tự do. Một số người phóng sinh động vật với số lượng trùng với tuổi của con vật .
Vào những buổi chiều, sư trụ trì hướng dẫn những nhà sư, ni cô và dân làng đi hái hoa tươi đem về chùa cúng Phật. Trong khi đi hái hoa người ta chơi trống và những nhạc cụ truyền thống. Những người khác thì đem nước đến lau rửa hoa .
Trong ngày Tết, người Lào rất chú trọng tới việc ăn món lạp, đặc biệt quan trọng là những người kinh doanh. Theo ngôn từ của nước này, lạp có nghĩa lộc. Lạp ở đây thường được làm bằng thịt gà hay thịt bò tươi sau đó đem trộn với gia vị. Đặc biệt, món này mà không có thính thì sẽ làm giảm mùi vị độc lạ của chúng. Trong mỗi mái ấm gia đình, đặc biệt quan trọng là những người làm nghề kinh doanh thương mại, món lạp thường được những đầu bếp làm rất công phu, vì nếu món này trong ngày Tết mà không ngon thì họ thường ví năm mới làm ăn có nhiều điềm xui. Lạp thường được ăn với xôi nóng .Theo nhiều chuyên viên văn hóa truyền thống Lào, thì lạp được xem như thể linh hồn của người Lào trong năm mới. Người ta hoàn toàn có thể đem chúc nhau bằng món lạp. Gia đình nào nhận được nhiều món này thì kỳ vọng năm mới sẽ có nhiều lộc .
Ngày tết khách đến xông nhà được chủ nhà buộc vào cổ tay một vòng chỉ xanh hoặc đỏ, biểu tượng hạnh phúc và sức khỏe.
Vào những ngày này mọi người thường biếu vải, biếu khăn cho người già. Hội đua thuyền được tổ chức triển khai trên sông. Ở những địa phương đều có đám rước, nhưng nổi tiếng nhất là đám rước Nangsangkhane ở cố đô Luang Prabang, với bảy cô gái đóng vai bảy người con của Kabinlaphom .Ban ngày người ta đến đền chùa cầu nguyện. Vào buổi tối, mọi người tập trung chuyên sâu ở chùa để đi dạo, màn biểu diễn âm nhạc truyền thống lịch sử ( morlam ) và múa lamvong. Nếu làng nào đặt tượng Phật trong hang núi thì lễ tắm Phật gọi là Song Namphaphou. Các nhà sư và dân làng ăn trưa ngay tại núi sau khi làm lễ .
Hoa sử dụng trong những ngày này được xem là điềm suôn sẻ, có hai loại hoa : hoa muồng ( bò cạp vàng, hoa hoàng hậu ) [ 3 ] được người dân cột vào xe và treo trên nhà để cầu may mắn. Còn hoa Champa được người dân kết thành chùm hay cài trên tóc để cầu mong điều phước lành .
Source: https://suanha.org
Category : Ngoại Thất