MENU

Nhà Việt

Phục Vụ

24/24

Email Nhà Việt

[email protected]

Đề cương chi tiết môn Thị trường chứng khoán

OPTADS360
Link xem tivi trực tuyến nhanh nhất xem tivi trực tuyến nhanh nhất xem phim mới 2023 hay nhất xem phim chiếu rạp mới nhất phim chiếu rạp mới xem phim chiếu rạp xem phim lẻ hay 2022, 2023 xem phim lẻ hay xem phim hay nhất trang xem phim hay xem phim hay nhất phim mới hay xem phim mới link phim mới
intTypePromotion = 1

Bạn đang đọc: Đề cương chi tiết môn Thị trường chứng khoán

YOMEDIA


ADSENSE

Trang Chủ

Tài Chính – Ngân Hàng

Đầu tư Chứng khoán

Đề cương chi tiết môn Thị trường chứng khoán

Chia sẻ : Phạm Ái Quốc | Ngày : | Loại File : DOCX | Số trang : 71

Thêm vào BST

Báo xấu

325

lượt xem

18

tải về

  Download

Vui lòng tải xuống để xem tài liệu không thiếu

Đề cương cụ thể môn Thị trường chứng khoán trình làng 29 câu hỏi cơ bản về thị trường chứng khoán và câu vấn đáp, Đây là một tài liệu có ích dành cho những bạn đang theo học môn này và những ai chăm sóc dùng làm tài liệu học tập và điều tra và nghiên cứu .
AMBIENT /

Chủ đề :

  • Thị trường chứng khoán
  • Đề cương thị trường chứng khoán
  • Câu hỏi thị trường chứng khoán
  • Bài tập thị trường chứng khoán
  • Công ty chứng khoán

Bình luận Đăng nhập để gửi phản hồi !

Lưu

Nội dung Text : Đề cương chi tiết cụ thể môn Thị trường chứng khoán

  1. Contents

    1

  2. TỔNG HỢP ĐỀ CƯƠNG TTCK

    Phần 1: Tổng quan TTCK

    C1: Các chủ thể nào tham gia TTCk, phân tích HĐ các chủ thể này
    Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: 
    nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
    Nhà phát hành: Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường 
    chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán ­ hàng hóa của thị trường 
    chứng khoán. Cụ thể: + Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu 
    Chính phủ và trái phiếu địa phương. + Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công 
    ty. + Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ 
    thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
    Nhà đầu tư: Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng 
    khoán, bao gồm: + Các nhà đầu tư cá nhân. + Các nhà đầu tư có tổ chức.
    Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán: + Công ty chứng khoán. + Quỹ đầu tư 
    chứng khoán. + Các trung gian tài chính.
    Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán: + Cơ quan quản lý Nhà nước. + Trung 
    tâm/Sở giao dịch chứng khoán. + Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. + Tổ chức lưu ký 
    và thanh toán bù trừ chứng khoán. + Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán. + Các tổ chức tài 
    trợ chứng khoán. + Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm…

    Công ty chứng khoán: ­ Môi giới
    ­ Tự doanh: tiến hành tự mua bán ck (ở VN vốn >12 tỷ ms đc tự doanh)
    ­ Bảo lãnh phát hành: thực hiện chào bán, phân phối CK cho DN
    ­ Quản lý danh mục đầu tư: quản lý vốn uỷ thác của KH để đầu tư ­> sinh lời cho KH
    ­ Tư vấn CK
    NHTM: 
    ­ mô hình chuyên doanh: CTCK độc lập vs NHTM và các tc tài chính khác không đc tham 
    gia vào hđ kd CK
    ­ Mô hình đa năng: đa năng toàn phần: NH đc hđ trong lĩnh vực tiền tệ, ck, bảo hiểm
    ­ Đa năng 1 phần: NHTM phải lập công ty con là CTC hđ độc lập
    C2: Bình luận các NHTM trên TTCK VN 
    1. Sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam
                  Tại Việt Nam việc tham gia thị trường chứng khoán của các định chế  tài chính trung  
    gian còn khá khiêm tốn đặc biệt là ngân hàng thương mại. Hoạt  động của các ngân hàng  
    thương mại trên thị trường chứng khoán chủ yếu do các công ty con trực thuộc tiến hành. Công 
    ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại có thể hoạt động với các nghiệp vụ chính như:  
    môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát hành, tự doanh….
          Hiện nay Việt Nam có khoảng 105 công ty chứng khoán được phép hoạt động trong đó bao  
    gồm có 13 công ty thuộc ngân hàng
    a. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán: (vai trò như nhà đầu tư – theo luật các tổ chức tín dụng)
    Đối tượng tự  doanh thường tập trung vào trái phiếu và cổ  phiếu niêm yết. .  Công ty chứng 
    khoán tự  doanh nhiều cổ  phiếu là công ty chứng khoán ACB. Những công ty chứng khoán tự 
    doanh nhiều trái phiếu là công ty chứng khoán Ngân hàng NN&PTNT, công ty chứng khoán 
    Ngân hàng ngoại thương, công ty chứng khoán Ngân hàng công thương, công ty chứng khoán 

    2

  3. ngân hàng ĐT&PT. Sự  gia tăng về  giá trị  trái phiếu tự  doanh trong thời gian gần đây đã góp 
    phần kích hoạt thị  trường thứ  cấp về  trái phiếu.  Cụ  thể  như  hoạt động kinh doanh chứng  
    khoán của công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển (BSC) trong các năm gần đây có 
    nhiều khởi sắc. Doanh thu từ  hoạt động kinh doanh chứng khoán và lãi đầu tư  qua các năm  
    2006 đến 2009 như sau: Đv: triệu đồng
     
    2006 2007 2008 2009
    200 716 327 854 556 405 619 752
    b.Nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán:
                  Cả  105 công ty chứng khoán trong đó có 13 công ty chứng khoán thuộc ngân hàng  
    thương mại hiện nay đều được cấp phép thực hiện nghiệp vụ này. Những ngày đầu thị trường 
    mới đi vào hoạt động các công ty chứng khoán cũng là những chủ  thể  góp phần tuyên truyền, 
    phổ  biến kiến thức về  chứng khoán và thị  trường chứng khoán cho công chúng đầu tư. Đến 
    nay ngoài việc tư vấn đầu tư trực tiếp cho khách hàng, cung cấp miễn phí các báo cáo giao dịch  
    định kỳ có phân tích, các công ty chứng khoán đã mở rộng hình thức tư vấn có tổ chức chuyên 
    môn sâu hơn như: tư vấn phát hành cho một số công ty niêm yết trên TTGDCK có ý định phát 
    hành thêm, tư vấn tái cấu trúc tài chính, tư vấn dự án cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước.  
    Đặc biệt các công ty chứng khoán đã tích cực tham gia mạnh mẽ  vào tiến trình cổ  phần hóa 
    bằng việc tư  vấn cổ  phần hóa, định giá doanh nghiệp, tổ  chức bán đấu giá cổ  phiếu công ty  
    cho công ty cổ  phần. Nhờ  đó, doanh thu của các ngân hàng thương mại từ  hoạt động tư  vấn 
    cũng tăng lên đáng kể  qua các năm tuy nhiên hoạt động này không đem lại nguồn doanh thu  
    chính cho các ngân hàng thương mại.
    Ví dụ: Doanh thu về hoạt động tư vấn chứng khoán của công ty BSC: vnd
      2008 2009
    Doanh thu 1.463.952.350 8.688.152.010
    c. Nghiệp vụ bảo lãnh và  phát hành chứng khoán:
    * Nghiệp vụ  bảo lãnh phát hành chứng khoán của ngân hàng thương mại là việc ngân hàng 
    thương mại tiến hành những hoạt động cần thiết nhằm giúp cho tổ chức phát hành thực hiện  
    thành công việc chào bán cổ phiếu ra công chúng. Ở Việt Nam, bảo lãnh phát hành được thực 
    hiện theo một trong hai phương thức sau:
    ­          Mua một phần hay toàn bộ số lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu được phép phát hành 
    để bán lại.
    ­          Mua số cổ phiếu hoặc trái phiếu còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết. 
    Đây thực chất là một dạng của phương thức cam kết chắc chắn, nhưng tổ chức bảo lãnh phát  
    hành cam kết mua phần chứng khoán còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết.
                  Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, bảo lãnh phát hành chứng khoán được coi  
    là một nghiệp vụ quan trọng và là một trong số 5 nghiệp vụ được cấp giấy phép cho hoạt động 
    của các công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thương mại. Thực tế thì các ngân hàng thương 
    mại mới chỉ triển khai hoạt động nhiều trong việc bảo lãnh trái phiếu chính phủ  có độ  rủi ro  
    rất thấp còn việc triển khai các nghiệp vụ  bảo lãnh phát hành cổ  phiếu của các công ty cổ 
    phần thì còn rất nhiều hạn chế 
    Doanh thu của công ty chứng khoán NH ngoại thương (VSVB)

    3

  4. Theo đánh giá của giới phân tích, với mức giảm giá trung bình của nhiều cổ phiếu trong các đợt  
    sụt giảm lên tới 25 ­ 50%, thì với mỗi thương vụ bảo lãnh, theo mức hệ số 80%, các CTCK sẽ 
    phải trích lập dự  phòng khoảng 12 ­ 16% đối với số  cổ  phiếu chưa phân phối hết. Đây là  
    khoản trích lập dự phòng không hề nhỏ.
    CTCK Vietcombank (VCBS) là cái tên đầu tiên được nhắc tới trong mảng nghiệp vụ bảo lãnh  
    phát hành. Những năm trước, VCBS thường xuyên hiện diện trong các thương vụ phát hành cổ 
    phiếu của các doanh nghiệp lớn như FLC, KLF…
    Năm nay, VCBS tiếp tục thực hiện các thương vụ  bảo lãnh phát hành cổ  phiếu (cho HAI) và  
    bảo lãnh phát hành trái phiếu (cho Masan, Sungroup, Vneco). Tuy nhiên, các thương vụ này chủ 
    yếu được thực hiện trong nửa đầu năm, VCBS ghi nhận doanh thu bảo lãnh phát hành 68,1 tỷ 
    đồng, chiếm gần một nửa tổng doanh thu trong kỳ. Quý III/2015, VCBS không ghi nhận doanh 
    thu từ nghiệp vụ này.
    Theo ghi nhận của Đầu tư Chứng khoán, ngoài VCBS, có 3 CTCK khác ghi nhận doanh thu tốt 
    từ mảng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Cụ thể, doanh thu tư vấn của CTCK Ngân hàng Đầu tư 
    và Phát triển Việt Nam (BSC) trong quý II/2015 đạt trên 23 tỷ  đồng, tăng hơn 107%; 6 tháng 
    đầu năm tăng 140% so với cùng kỳ năm trước. Tương tự, doanh thu tư vấn của CTCK VPBank  
    (VPBS) trong 6 tháng đầu năm 2015 đạt 32,4 tỷ đồng, tăng gần 70%.
    Đối với CTCK Kỹ thương (TechcombankSc), công ty này trước đây ghi nhận các khoản doanh 
    thu từ tư vấn, bảo lãnh phát hành vào mục “doanh thu tư vấn”, nhưng trong quý II/2015 đã tách 
    biệt hai khoản doanh thu này. Theo đó, doanh thu tư  vấn đạt 1,1 tỷ  đồng, doanh thu bảo lãnh  
    phát hành chứng khoán đạt 45 tỷ đồng. Tuy nhiên, tổng 2 khoản này chỉ bằng một nửa của quý 
    II năm trước.
    * Hoạt động phát hành chứng khoán là một hoạt động khá phát triển của ngân hàng thương 
    mại trong thời gian qua. Đây là hoạt động tạo hàng hóa của ngân hàng thương mại trên thị 
    trường chứng khoán và huy động vốn của ngân hàng thương mại.
                                + Năm 2007, nhiều ngân hàng đã phát hành trái phiếu như  :ACB phát hành 
    2.250 tỷ trái phiếu thường, SCB là ngân hàng đầu tiên phát hành 1000 tỷ trái phiếu chuyển đổi ,  
    VCB phát hành 1000tỷ  trái phiếu chuyển đổi, BIDV phát hành 3000 đồng tỷ  trái phiếu. Tuy  
    nhiên, do thị  trường trái phiếu chưa phát triển, hệ  thống pháp luật chưa    chưa nghiêm khắc, 
    môt ṣ ố  ngân hàng thương mại đã phát hành trái phiếu ra công chúng không tuân theo quy định  
    pháp luật, gy thiệt hại cho nhà đầu tư, thao túng thị trường.Ví dụ như việc phát hành trái phiếu 
    chuyển đổi của Ngân hàng Vietcombank. Tuy chưa là một ngân hàng cổ  phần nhưng VCB đã  
    được phép phát hành trái phiếu chuyển đổi, thời gian chuyển đổi không nói rõ, tỷ  lệ  chuyển  
    đổi không được công bố. Hay như  việc ACB phát hành trái phiếu chuyển đổi đầu năm 2008. 
    Có rất nhiều tranh cãi xung quanh việc nên điều chỉnh hay không giá tham chiếu cổ phiếu ACB  
    ngày chốt quyền mua trái phiếu chuyển đổi. Cộng vào đó thời điểm chuyển đổi chính xác trái 
    phiếu thành cổ phiếu trong khoảng 2008­2012 là một khoảng trống rất lớn có thể gây thiệt hại 
    cho nhà đầu tư.

    4

  5.                             + Tính tới thời điểm hiện tại Việt nam có 39 ngân hàng cổ  phần. Tuy nhiên  
    hiện trên sàn niêm yết đã có 7 cổ phiếu của các ngân hàng, gồm Ngân hàng Á châu (mã ACB­
    HNX),   Ngân   hàng   Công   Thương   (mã   CTG­HOSE),   Ngân   hàng   Xuất   nhập   khẩu   (mã   EIB­
    HOSE), Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (mã SHB­HNX), Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (mã 
    STB­HOSE) và Ngân hàng Ngoại thương (mã VCB­HOSE), Ngân hàng Thương mại cổ  phần  
    Nam Việt (NVB : HNX). Các ngân hàng cổ phần còn lại chủ yếu được giao dịch trên UpCOM.  
    Đây là một hạn chế  đối với các ngân hàng thương mại Việt  Nam. Việc tham gia trên các sở 
    giao dịch chính thức sẽ giúp minh bạch hoá thông tin, vừa tạo điều kiện cho thị  trường chứng 
    khoán trên các sở  giao dịch chính thức mở  rộng quy mô phát triển, vừa tạo cơ  hội cho ngân  
    hàng tìm kiếm nguồn vốn huy động được dễ  dàng hơn. ACB, VCB, CTG, STB đều là những 
    mã chứng khoán được nhà đầu tư quan tâm và giao dịch với giá thị trường khá cao.
    d. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán:
                  Là dịch vụ  do công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thương mại đảm trách và có  
    những ưu thế  nhất định so với các công ty chứng khoán khác do đó hoạt động này đã đem lại  
    những lợi nhuận từ lệ phí giao dịch hoặc hoa hồng giao dịch rất lớn
    VD: Doanh thu từ môi giới chứng khoán của BSC qua các năm:
     
      2008 2009
    Doanh thu 27540 61326
    Lợi nhuân
    ̣ 14945 34011
     
    e. Hoạt động lưu ký chứng khoán
       Hoạt động lưu ký chứng khoán là hoạt động mà các công ty chứng khoán đặc biệt là các 
    công ty thuộc ngân hàng thương mại rất quan tâm. Nhìn chung, các thành viên luôn tìm cách thu  
    hút số khách hàng vào lưu ký tại công ty mình ngày càng nhiều, song do ngày càng nhiều thành 
    viên được cấp phép hoạt động lưu ký nên diễn ra sự  cạnh tranh giữa các thành viên. Một vài  
    công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thương mại đã khẳng định được vị thế của mình trên thị 
    trường như: ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VCBS), Ngân hàng đầu tư  và phát triển. Số 
    thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký chứng khoán là 122 thành viên trong đó có 8 ngân 
    hàng lưu ký và 12 tổ chức mở tài khoản trực tiếp (gồm các ngân hàng thương mại là thành viên 
    đặc biệt của thị trường trái phiếu chuyên biệt).
    ph. Thanh toán bù trừ qua NH chỉ định thanh toán
                  Ngân hàng Đầu tư  và phát triển Việt Nam được Uỷ  ban chứng khoán lựa chọn làm 
    Ngân hàng chỉ  định thanh toán. Hoạt động thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán của  
    Ngân hàng chỉ định thanh toán cho đến nay được thực hiện tốt, không có hiện tượng vi phạm  
    nguyên tắc thanh toán.  Hệ  thống bù trừ  thanh toán  ở  VN hoạt động theo 2 cấp, TTGDCK chỉ 
    mở tài khoản cho thanh viên lưu ký, quản lý và thực hiện lưu ký, bù trừ  thanh toán theo thanh  
    viên lưu ký còn các thành viên lưu ký quản lý và cung cấp dịch vụ lưu ký, bù trừ thanh toán chi 
    tiết cho nhà đầu tư. Trong hoạt động thanh toán việc chuyển giao chứng khoán diễn ra tại  
    TTGDCK, còn thanh toán tiền do ngân hàng chỉ  định thanh toán thực hiện trên kết quả  bù trừ 
    của TTGDCK. Hệ thống thanh toán bù trừ chứng khoán có những hạn chế như sau:
                  + Chưa đạt tính đồng bộ  và hoàn thiện về mặt pháp lý, chưa tạo dựng được các yếu 
    tố thị trường đồng bộ.
                  + Thiếu cơ chế quản lý việc in ấn và lưu ký chứng khoán thống nhất và phù hợp với 
    thông lệ quốc tế.

    5

  6.               + Các biện pháp khắc phục lỗi giao dịch chưa chủ động và hiệu quả.
                  + Năng lực của hệ  thống phần mềm phục vụ  cho các hoạt động bù trừ  thanh toán 
    chứng khoán chưa cao.
                  + Khả năng khắc phục rủi ro thanh toán của quỹ hỗ trợ thanh toán chưa cao.
                  + Các biện pháp phòng ngừa và khắc phục rủi ro chưa hoàn hảo.
    2. Nguyên nhân thực trạng
    Một điều dễ  nhận ra vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự  phát triển của thị  trường  
    chứng khoán còn rất hạn chế, các ngân hàng thương mại chưa thực sự vào cuộc, cùng bắt tay  
    sẻ  chia những khó khăn với thị  trường chứng khoán nhằm đưa thị  trường chứng khoán phát  
    triển. Các hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị  trường chứng khoán vẫn còn mang  
    nhiều tính chất thăm dò và tiến hành các nghiệp vụ  ít rủi ro, không đòi hỏi vốn lớn. Nguyên 
    nhân của những hạn chế này chủ yếu không phải là các ngân hàng không thấy được tiềm năng 
    to lớn của thị trường chứng khoán và vai trò của mình trên thị trường chứng khoán mà đó xuất  
    phát từ những hạn chế, yếu kém về năng lưc và nguồn lực bên trong của các ngân hàng thương 
    mại Việt Nam.
    a. Thứ nhất là Yếu kém về năng lực và các nguồn lực trong ngân hàng thương mại Việt Nam.
                  Năng lực tài chính của nhiều ngân hàng Việt Nam còn yếu, nợ quá hạn cao, nhiều rủi 
    ro. Vốn tự  có của các ngân hàng thương mại Nhà nước còn thấp. Ngân hàng Nông nghiệp và 
    phát triển nông thôn Agribank có tổng tài sản 470.000 tỷ đồng; vốn tự  có 22.176 tỷ đồng (vốn  
    tự có chiếm 4,71%),  trong khi đó chuẩn mực quốc tế là 8 %. Vốn tự có đóng vai trò quan trọng 
    với hoạt động của ngân hàng, vừa là nguồn lực đảm bảo sức mạnh tài chính vừa đảm bảo an  
    toàn trong hoạt động kinh doanh của 1 ngân hàng. Nếu không tăng được vốn ở  mức cần thiết 
    thì khó có thể  nói đến việc tài trợ  hiệu quả  cho những dự án lớn, khách hàng lớn. Đồng thời,  
    khi không có nguồn lực thì khó có thể  đầu tư  cho công nghệ  hiện đại, phát triển các dịch vụ 
    ngân hàng hiện đại, không có khả năng đầu tư tài chính, vươn ra cạnh tranh trên thị trường tài  
    chính khu vực và thế giới.
    b. Thứ hai về Công nghệ ngân hàng
                  Tuy vấn đề hiện đại hóa công nghệ  ngân hàng đã được quan tâm và đầu tư  song chủ 
    yếu cũng mới  ở  giai đoạn thử  nghiệm và cũng mới chỉ  thực hiện  ở  một số  ngân hàng lớn,  
    thuộc khu vực đô thị. Còn phần lớn hệ thống ngân hàng có trình độ cơ giới thấp, công nghệ lạc  
    hậu, mạng lưới chi nhánh rộng nhưng hoạt động kém hiệu quả. Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ 
    và khả  năng sinh lời của phần lớn các ngân hàng thương mại mà đặc biệt là các ngân hàng  
    thương mại Nhà nước đều thua kém các ngân hàng trong khu vực.
    c.Thứ 3 về Năng lực quản trị đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước là rất thấp. Hiện 
    nay đội ngũ lao động của các ngân hàng thương mại Việt Nam tương đối đông về  số  lượng 
    nhưng trình độ chuyên môn thấp, nhất là các cán bộ quản lý.
    3.  Giải  pháp thúc  đẩy  hoạt   động ngân  hàng  thương  mại  trên  thị   trường  chứng  khoán  của 
    Việt Nam
    a. Vĩ mô:
    * Hoàn thiện cơ sở pháp lý:
                  Hoàn thiện hệ  thống luật pháp, các bộ  luật về  thị  trường chứng khoán ngày càng sát  
    với thực tế, ban hành các thong tư hỗ trợ việc thực hiện luật chứng khoán, tạo khuôn khổ pháp 
    lý khuyến khích ngân hàng thương mại tham gia hoat động  chứng khoán:
    * Phát triển thị trường chứng khoán:

    6

  7.         Bộ Tài chính đã xác định mô hình thị trường chứng khoán là:
                                  + TTGDCK Tp HCM là thị trường tập trung, phát triển thàh Sở Giao Dịch  
    Chứng Khoán có khả năng liên kết với các thị trường trong khu vực;
                                + TTGDCK Hà Nội là thị  trường giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
    phát triển thành thị trường phi tập trung phù hợp với quy mô của TTCK.
                  Bên cạnh thị trường chứng khoán chính thức thì ta đẩy mạnh thị trường OTC với  
    nòng cốt là hoạt động của các ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán. Đồng thời, ta  
    cũng đã triển khai đưa trung tâm lưu ký chứng khoán vào hoạt động. Trung tâm lưu ký chứng  
    khoán độc lập này sẽ tập trung hoá tất cả hoạt động lưu ký đối với các chứng khoán niêm yết  
    và đăng ký giao dịch của hai Trung tâm giao dịch tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, tạo điều kiện  
    thuận lợi cho các giao dịch ngoài sàn do các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán thực  
    hiện.
                  Thu hút mạnh đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân nhỏ  và phát triển dịch vụ quản 
    lý danh mục đầu tư  cho khách hàng cá nhân. Với dịch vụ  này, các ngân hàng thương mại sẽ 
    thiết kế các sản phẩm để thu hút vốn để đầu tư trong nước hoặc liên kết với các đối tác nước  
    ngoài để bán các sản phẩm quỹ đầu tư của nước ngoài (đầu tư ra nước ngoài)
                  Tạo khuôn khổ pháp lý khuyến khích ngân hàng thương mại tham gia hoạt động 
    chứng khoán việc khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia hoạt động chứng khoán, 
    đặc biệt là hoạt động cổ phiếu sẽ phát huy được các thế mạnh của các ngân hàng thương mại.
                  Mở rộng hoạt động của công ty chứng khoán. Việc tăng năng lực tài chính cũng  
    như phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán với mục tiêu trở thành các ngân hàng đầu  
    tư, đủ sức bảo lãnh phát hành và thực hiện các dịch vụ đầu tư chứng khoán không chỉ trong thị 
    trường Việt Nam mà còn tiến tới tham gia vào quá trình phát hành trái phiếu quốc tế của Chính  
    phủ và các doanh nghiệp Việt Nam.
                  Hoàn thiện hệ  thống giao dịch theo hướng đảm bảo sự  kết hợp giữa các điều 
    kiện sẵn có của môi trường kinh tế  với nhu cầu của các đối tượng tiềm năng tham gia thị 
    trường chứng khoán, trong đó tập trung vào các yêu tố  như: Tính  ổn định của thị  trường; tính 
    đơn giản; tính thích nghi; tính bảo mật. Trong thời gian qua, mặc dù hệ  thống gaio dịch của  
    TTGDCK được xây dựng từ các nguồn cung cấp khác nhau nhưng bước đầu đã đáp ứng được  
    các nhu câu giao dich chứng khoán trên thị  trường. Tuy nhiên, hệ  thống giao dịch hiện tại sẽ 
    khó có thể đáp ứng được yêu cầu cho giao dịch sắp tới, đòi hỏi chúng ta cần phải thiết kế, xây  
    dựng hệ thống mang tính đồng bộ, có công suất lớn và đảm bảo được sự tương thích giữa các  
    hệ thống và có tính mở để có thể nâng cấp và khả năng kết nối với các hệ thống khác từ công 
    ty chứng khoán, trung tâm lưu ký, trung tâm thanh toán ……, từng bước cho phép ứng dụng các  
    giao dịch trực tuyến trên TTCk, tạo điều kiện dễ dàng và thuận lợi cho nhà đầu tư  trong việc 
    tiếp cận các phòng giao dịch thông qua mạng Internet; Mobile phne; phax; telex v.v.. Cần phải  
    đưa hệ thống giao dịch tự đọng mới vào vận hành, có thể khớp lệnh liên tục hoặc định kỳ. Kết  
    nối mạng diện rộng với các công ty chứng khoán thành viên, áp dụng hệ thống ngừng giao dịch  
    tự động khi đưa hệ thống khớp lệnh liên tục vào hoạt động.
            Hiện đại hoá hệ  thống giám sát thị  trường, xây dựng hệ thống giám sát tự  động kết  
    nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán .Nâng cấp hệ thống công 
    bố thông tin, đảm bảo có một hệ thống công bố  thông tin có thể  truyền phát rộng và truy cập  
    dễ  dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. Mở  rộng phạm vi  
    thông tin cần công bố  trên cơ  sở  xây dựng cơ  sở  dữ  liệu thông tin đầy dủ  bao gồm thông tin  
    giao dịch trên thị trường, thông tin về các công ty niêm yết, thông tin về các tổ chức trung gian  
    thị trường và thông tin quản lý thị trường.

    7

  8.         Tự động hoá một bước hệ thống lưu ký, và thanh toán bù trư chứng khoán. Thực hiện  
    dịch vụ  lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết.; giảm thời gian thanh toán; tự  động hoá  
    từng bước hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ; thực hiện nối mạng giữa các thành viên lưu ký 
    và TTGDCK.
    b. Vi mô
    * Tăng cường tiềm lực tài chính cho các ngân hàng thương mại:
    + Để thực hiện nghiệp vụ:
                                ­ Môi giới chứng khoán cần vốn điều lệ là : 25 tỷ đồng Việt Nam;
                                ­ Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam;
                                ­ Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam;
                                ­ Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam.
    Để một công ty tham gia vào thị trường chứng khoán thì cần một số vốn lớn, mặt khác để 
    ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả  thì phải phân tách tài chính giữa hai lĩnh vực là 
    ngân hàng và chứng khoán. Hiện nay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì vốn điều lệ tối 
    thiểu của ngân hàng thương mại phải là 3000 tỷ đồng trong đó vốn tự có phải là 500 tỷ đồng.  
    Như vậy để một ngân hàng thương mại tham gia thị trường chứng khoán thì cần huy động số 
    vốn lớn trong khi theo đánh  thì: chỉ có một số ít ngân hàng thương mại đủ tài lực để  tham gia  
    thị trường chứng khoán và kinh doanh hoạt động ngân hàng.Nhưng vốn tự có của các ngân hàng  
    chiếm tỉ  lệ  nhỏ  trong tổng nguồn vố:   như  ngân hàng Agribank (một trong những ngân hàng 
    lớn  của nước ta) cũng chỉ có  vốn tự có 22.176 tỷ đồng; tổng nguồn vốn 434.331tỷ đồng trong  
    khi đó, vốn tự có đóng vai trò quan trọng đói với hoạt động của một ngân hàng, vừa là nguồn  
    lực đảm bảo sức mạnh tài chính vừa đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của một 
    ngân hàng. Nếu không tăng  được vốn ở mức cần thiết thì khó có thể nói đến việc tài trợ hiệu  
    quả  cho những dự  án lớn, khách hàng lớn. Đồng thời, khi không có nguồn lực thì khó có thể 
    đầu tư cho công nghệ hiện đại, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, không có khả  năng 
    đầu tư  tài chính, vươn ra cạnh tranh trên các thị  trường tài chính khu vực và thế  giới. Để  đáp 
    ứng các chuẩn mực quốc tế về vốn, chính phủ quyết định nâng vốn pháp định của các NHTM 
    lên 5000 tỷ đồng vào năm 2012 và 10000 tỷ đồng vào năm 2015.Đồng thời nâng vốn điều lệ của 
    các công chứng khoán từ 200 tỷ lên 300 tỷ đồng.
    * Nâng cao trình độ nhân sự
    + Đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên tác nghiệp tại các công ty chứng khoán và công tác 
    đào tạo cấp giấy phép hành nghề chứng khoán có trình độ  và kỹ năng nghề nghiệp ngang tầm 
    với cá nước trong khu vực; đảm bảo chất lượng đào tạo và thi tuyển cấp phép hành nghề 
    ngang tầm khu vực.
                     + Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ tư  vấn đầu tư  chứng khoán: Ngoài những  
    kiến thức nền tảng về kinh tế tài chính, đội ngũ này cần có hiểu biết sấu sắc về kỹ năng phân  
    tích chứng khoán và lựa chọn danh mục đầu tư  chứng khoán, có khả  năng tìm tòi, khai thác,  
    phân tích tổng hợp thông tin.
    + Các công ty chứng khoán nên phối hợp với TTNCKH& DDTCK cử  các chuyên gia  
    giảng dạy đối với từng nghiệp vụ chuyên sâu, cũng như thông tin tình hình của thị trường.
    * Phát triển công nghệ ngân hàng:
    * Nâng cao chất lương hoat động của ngân hàng thương mại:
    * Xây dưng mô hình hoat động của ngân hàng thương mại trên TTCK

    8

  9.               Hiện nay hầu hết các ngân hàng hoạt động trên thị trường chứng khoán đều hoạt động 
    theo hình thức đa năng một phần, đó là việc hình thành nên các công ty con­công ty chứng 
    khoán, hoạt động độc lập.Mô  hình này có  ưu điểm các ngân hàng được kết hợp kinh doanh 
    ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế  mạnh về  tài chính, kinh  
    nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của ngân hàng. Bên cạnh đó, bởi vì có quy định hoạt 
    động riêng rẽ  giữa hai hoạt động trên cho nên hạn chế  được rủi ro nếu có sự  biến động của 
    một trong hai thị trường. Đặc biệt, mô hình này phù hợp với nước ta, khi mà thị  trường chứng  
    khoán đang trong quá trình phát triển, cần có tổ  chức tài chính lành mạnh tham gia vào thị 
    trường và khi hệ thống luật, kiểm soát… còn nhiều mặt hạn chế.
    C3: phân tích vai trò TTCk –bình luận TTCk VN như 1 sòng bạc 
    T29 Gt 
    Bình luận nhận định: “Thị trường chứng khoán Việt Nam như 1 sòng bạc”
                  I) Phải khẳng định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam không phải 1 sòng bạc vì 
    bản chất đầu tư chứng khoán khác xa đánh bạc:
                  ­ Cổ phiếu là 1 loại tài sản đặc biệt, nắm giữ cổ phiếu không chỉ là nắm giữ tài sản 
    của công ty mà còn có quyền nhận được cổ tức khi công ty làm ăn có lãi. Việc nắm giữ cổ 
    phiếu đã khác với việc nắm giữ 1 tài sản thông thường. Trong khi đó người những loại giấy tờ 
    trong đánh bạc thậm chí không được coi là tài sản.
                  ­Tham gia đầu tư cổ phiếu làm tăng sự giàu có của toàn bộ nền kinh tế: Thị trường 
    chứng khoán gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, thị trường sơ cấp cung cấp các loại 
    chứng khoán cho thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư mua bán trao tay cổ phiếu trên thị trường 
    thứ cấp tạo tính thanh khoản cho thị trường sơ cấp. Hai thị trường này đã giúp cho các chủ thế 
    phát hành có thế tiếp cận với 1 kênh huy động vốn hiệu quả, giá rẻ, nhờ thế họ mở rộng sản 
    xuất, nâng cao tổng tài sản xã hội.
                  (*)So sánh thị trường chứng khoán và sòng bạc:
                  ­ Nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán cần kiến thức tài chính sâu rộng, tất nhiên để 
    thành công trong thị trường này, 1 điều rất quan trọng cần phải có nữa là sự nhạy cảm, còn kẻ 
    chơi bạc thì chỉ cần pheeling
                  ­ Đầu tư chứng khoán làm tăng tổng giá trị tài sản xã hội, còn chơi bạc chỉ là sự luân 
    chuyển tiền từ kẻ thua sang người thắng, tổng giá trị tài sản xã hội là không đổi.
                  ­ Rủi ro trong thị trường chứng khoán là có cơ sở kiểm soát, còn rủi ro trong chơi bạc 
    hoàn toàn không có khả năng kiểm soát.
                  Đồng hồ đầu tư: Đồng hồ đầu tư là 1 trong những chỉ báo tốt nhất nhằm dự báo sự 
    vận động và điều kiện của thị trường chứng khoán nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. 
    Bất kỳ 1 thị trường chứng khoán nào, bất kỳ 1 nền kinh tế nào trên thế giới cũng đều phải trải 
    qua những chu kỳ kinh tế. Mỗi vòng đồng hồ đại diện cho 1 chu kỳ kinh tế. Một nhà đầu tư có 
    kiến thức, có kinh nghiệm khi bước vào thị trường, dù không biết được chính xác nhưng cũng 
    có thể dự đoán được TTCK đang ở khoảng mấy giờ của đồng hồ, dựa vào đó họ sẽ điều chỉnh 
    danh mục đầu tư cho phù hợp.
                  Ví dụ thị trường Việt Nam: nhìn trên đồng hồ, từ 9 đến 12 giờ là giai đoạn thị trường 
    bùng nổ, tương ứng với TTCKVN năm 2006 và 3 tháng đầu năm 2007, khoảng từ 12 giờ đến 3 
    giờ là giai đoạn thị trường đi xuống, tương ứng khoảng thời gian nửa cuối năm 2007 và năm 
    2008, từ 3 giờ đến 6 giờ là giai đoạn thị trường suy thoái tương ứng với khoảng thời gian 2009, 
    2010, thực sự chúng tôi cũng không biết chắc là đến nay thị trường đã thoát khỏi suy thoái và 
    đang đi vào giai đoạn hồi phục chưa.
                  Đó mới chỉ là 1 trong rất nhiều ví dụ cho thấy việc có khả năng kiểm soát rủi ro của 
    thị trường chứng khoán.
                  (*) Các công ty niêm yết trên sàn phải công khai tình hình tài chính,
    kinh doanh => giảm tiêu cực trong kinh doanh

    9

  10.                     +)Để được nhà đầu tư đánh giá cao, các công ty phải cạnh tranh với nhau => tăng 
    năng suất lao động, nâng cao đời sống XH
     
                  II) Nguyên nhân gây ra nhầm lẫn
     
    a) Tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư Việt Nam:
                  Tại các định chế tài chính lớn trên thế giới như Anh, Mỹ. Thị trường chứng khoán đã 
    tồn tại cả trăm năm, vì thế nhà đầu tư đa phần có kiến thức tài chính tốt, số nhà đầu tư nhỏ lẻ 
    không nhiều mà phần lớn là các quỹ đầu tư, tổ chức tài chính… vì thế đầu tư chứng khoán có 
    tính bầy đàn không cao. TTCK Việt Nam còn non trẻ, theo như thống kê thì có hơn 80% nhà 
    đầu tư trên thị trường là nhà đầu tư nhỏ lẻ, phần lớn trong đó là những “PHree Rider”
                  Những phree rider chơi chứng khoán theo đám đông làm cho thị trường lên xuống thất 
    thường, mọi công cụ phân tích đều không có hiệu quả, dẫn đến nhà đầu tư có kiến thức vào 
    thị trường cũng không khác gì 1 bác nông dân. Điều này làm tăng rủi ro không đáng có, mà rủi 
    ro càng cao thì càng dễ gây nhầm lẫn với sòng bạc.
     Hơn 3 tuần qua, Vn­Index mất gần 100 điểm. Đầu tháng 8, từ mốc 620 điểm, chỉ số sàn TP 
    HCM hôm nay chốt phiên chỉ còn 526 điểm. Trong đó, phiên hôm nay ghi nhận là ngày ảm đạm 
    nhất với 250 mã đỏ sàn, lực bán đè nặng thị trường. Blue­chip lao dốc hàng loạt. Những mã 
    vốn hóa lớn như VNM, GAS, MSN, BVH, VCB và nhóm cổ phiếu các ngành: dầu khí, ngân 
    hàng, thực phẩm, khoáng sản, địa ốc đồng loạt mất giá mạnh.
    Đó là sự  chậm trễ  trong tiến trình đàm phán TPP, giá dầu thế  giới vẫn tiếp tục giảm, khối  
    ngoại (đa số là các quỹ đầu tư nước ngoài, đặc biệt là quỹ ETF) xả hàng để dịch chuyển vốn,  
    động thái FED (Ngân hàng Trung  ương Mỹ) xem xét tăng lãi suất, dư  chấn của cú sốc Trung  
    Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ.

    Thông tin ngày 24/8/2015
    Một thí dụ về tâm lý bầy đàn do “tai nạn ngoài ý muốn” hay gặp trên thị trường chứng khoán. 
    Chẳng hạn là từ vụ “scandal” sữa nhiễm khuẩn trước kia của Tập đoàn sữa Fonterra (New 
    Zealand), và các nhà đầu tư phải đặt câu hỏi tại Việt Nam sẽ có công ty sản xuất sữa nào dính 
    dáng tới sản phẩm sữa của New Zealand hay không. Trước mắt, dù các công ty tại Việt Nam 
    không dính dáng đến Tập đoàn sữa Fonterra, nhưng chắc chắn rằng cổ phiếu của các công ty 
    sản xuất sữa của Việt Nam, chẳng hạn như như Vinamilk (HOSE: VNM), sẽ sụt giá, mà sụt 
    khá nặng, vì tâm lý ưa hốt hoảng của giới đầu tư. Đó là cơ hội cho nhà đầu tư chứng khoán 
    kiếm mối lợi rất lớn. Họ lập tức bán nhanh cổ phiếu công ty sữa của các nhà sản xuất tại Việt 
    Nam, dù lúc ấy nó vẫn tăng điểm nhẹ, vì chắc chắn là vài phiên sau nó sẽ sụt rất nặng.
    b)Một số sai lầm nguy hiểm khác:
                  Không có kỳ vọng đầu tư riêng : Lòng tham thì ai cũng có, nhưng vấn đế là phải biết 
    kiểm soát nó, nhiều nhà đầu tư Việt không biết kiểm soát lòng tham. Khối ngoại họ đầu tư vào 
    thị trường Việt Nam luôn có kỳ vọng đầu tư riêng, họ xác định lợi nhuận kỳ vọng (VD: 15% 
    trong vòng 3 tháng), đạt được lợi nhuận lỳ vọng họ sẽ rút khỏi thị trường ngay, còn nhà đâu tư 
    VN đạt được lợi nhuận kỳ vọng rồi, nhưng thấy thị trường đang lên vẫn đầu tư tiếp để mong 
    chờ có lợi nhuận lên đến 50%, 100%…, và khi thị trường quay đầu thì trở tay không kịp, mất 
    hết lợi nhuận và có thể thếm hụt cả vốn gốc.
                  Quan tâm tới lợi nhuận nhưng không quan tâm tới bổ sung kiến thức : Thiếu kiến thức 
    trong bất kỳ lĩnh vực gì cũng đều gây nguy hiểm, bước vào 1 định chế tài chính phức tạp bậc 
    nhất như thị trường chứng khoán mà không có kiến thức thì túi tiền của mình chỉ làm mồi cho 
    kẻ khác.
                  Tin rằng “mình khôn ngoan nhất”. : Đây là 1 biểu hiện của thiếu kiến thức, càng 
    những người thiếu kiến thức thì càng tin rằng mình khôn ngoan nhất, điều này dẫn đến chủ 

    10

  11. quan trong điều chỉnh danh mục đầu tư, không những làm thiệt hại đến mình mà còn ảnh 
    hưởng đến toàn thị trường.

    C4: Phân tích hạn chế của TTCK VN
     TTCK Việt Nam là TT mới hình thành, vẫn đang ở giai đoạn “làm quen” về hệ thống 
    luật lệ, về ý thức chấp hành, trình độ nghiệp vụ. Tất cả những vấn đề này làm cho TTCK 
    Việt Nam có những vấn đề mới và khác các nước. Các nước có nền kinh tế thị trường hoàn 
    chỉnh, từ thấp lên cao, hệ thống luật lệ hình thành tương đối rõ. Còn ta thì chuyển từ nền kinh 
    tế kế hoạch tập trung sang, TTCK mới được hình thành và hệ thống luật lệ cũng đang hoàn 
    chỉnh. Sự hiểu biết của người chơi chứng khoán, người tham gia TTCK, người điều hành 
    chứng khoán, người quản lý hệ thống chứng khoán cũng ở giai đoạn bước đầu. Tóm lại, TTCK 
    của Việt Nam đang bộc lộ 4 nhược điểm lớn:

    ­ Thứ nhất, Luật Chứng khoán của ta có những điểm yếu, có những điểm sót, hoặc có những 
    điểm chưa phù hợp gây ra rủi ro, không an toàn cho hệ thống chứng khoán.

    ­ Thứ hai, là sự hiểu biết của người tham gia TTCK, người làm môi giới cho các công ty chứng 
    khoán và người quản lý chưa nhiều, sự học hỏi bên ngoài chưa hoàn chỉnh, hệ thống thông tin 
    cung cấp cho họ không được thường xuyên…Cho nên tại Việt Nam xảy ra hiện tượng tưởng 
    chừng như nghịch lý là người hiểu biết lý thuyết, hiểu về chứng khoán nhiều nhưng đầu tư lại 
    hỏng. Nhưng người không hiểu, đôi khi chỉ liều lĩnh chơi theo kiểu “bầy đàn” có khi lại trúng. 
    Đó là một điều không lành mạnh của TTCKViệt Nam.

    ­ Thứ ba, TTCK của nước ngoài là TTCK cho toàn dân tham gia chứng khoán, tức là toàn dân 
    kinh doanh đồng tiền. Đồng tiền này trước đây nằm ở mỗi người một ít thì nay thông qua thị 
    trường tạo thành một khối đầu tư cho các dự án, đầu tư cho các công trình. Nhưng TTCK của 
    Việt Nam không mang dáng dấp như thế, mà mang yếu tố đầu cơ, chụp giật, anh nọ “hớt” anh 
    kia… còn đồng vốn vào được để sản xuất kinh doanh dài hạn, phục vụ vốn cho nền kinh tế thì 
    chỉ mức độ thôi.

    ­ Xung đột lợi ích giữa CTCK và nhà đầu tư

    Tự doanh của công ty ck cũng là nhà đầu tư. Khi họ vừa nắm bắt được thông tin giao dịch của 
    các nhà đầu tư. Ví dụ họ cũng đầu tư vào cổ phiếu KLF, FLC, FIT, VIX như các nhà đầu tư 
    khác. Nhưng khi họ đánh lên cùng nhà đầu tư lớn, hay gọi là biết được giao dịch của nhà đầu 
    tư vip. Khi chốt lãi như những ngày vừa qua và lượng MG của các mã đó đã vượt trần cho phép 
    họ chủ động cắt giảm (họ đã bán trước), và không làm áp lực Cắt giảm MG như những ngày 
    qua. Nếu không họ sẽ giải chấp bằng cách nộp tiền thêm vào tài khoản khi mà các mã đó giảm 
    mạnh quá cho phép ênh tiết kiệm, bds, vàng, usd.., giúp cho danh nghiệp, nhà nước,.. có được 
    nguồn vốn để phát triển vững mạnh. Từ đầu năm đến nay UBCK đã phạt 7000 tỷ đồng thu về 
    cho nhà nước khoản ko nhỏ. Nhưng xem ra vẫn còn ít và chưa mạnh tay, khi mà nhiều lợi ít 
    nhóm vẫn còn đất sống. Đó là thiếu sự minh bạch. 
    Đóng góp chính cho doanh thu của SSI vẫn là mảng tự doanh (chiếm gần 44% tổng doanh thu, 
    tăng 300% so với quý 3 năm trước và tăng 462% trong 9 tháng); Tính riêng trong quý 3/2014, 24 
    công ty có mức tăng ở mảng doanh thu tự doanh tính bằng lần. Trong đó có những công ty với 
    mức tăng lên đến vài chục lần hay gần cả trăm lần như CTCK Thành Công (TCSC), CTCK Sen 
    Vàng (GLS), CTCK Apec (APS) hay CTCK ngân hàng Đông Á (DASE), tuy nhiên, xét về giá trị, 
    doanh thu tự doanh của các công ty này không cao. Hầu hết đều nâng doanh thu tự doanh từ 
    hàng triệu hay chục triệu lên đến hàng tỷ đồng trong quý 3/2014.
    ­ Thứ tư, Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
    Trên thị trường chứng khoán, hiện tượng bất cân xứng xảy ra khi: doanh nghiệp che giấu các 

    11

  12. thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi…; doanh nghiệp cung cấp thông tin không công 
    bằng đối với các nhà đầu tư; doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu 
    tư sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên thị trường chứng khoán; có sự 
    rò rỉ thông tin nội gián; một số nhà đầu tư tạo cung cầu ảo trên thị trường dẫn đến phản ánh 
    sai lệch giá trị của doanh nghiệp; một số kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt cho doanh nghiệp; các 
    cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch; các trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông 
    tin không chính xác…
    Tình trạng bất cân xứng về thông tin sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu 
    tư không chính xác, gây cung cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị 
    trường.
    Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế giới, hiện 
    tượng thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vực.
    Thứ nhất, ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh nghiệp không 
    chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt đối với các công ty có cổ phiếu giao 
    dịch trên thị trường phi chính thức (OTC), tình trạng phổ biến là nhà đầu tư hầu như mù mờ về 
    tình hình làm ăn, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Các thông tin tìm được chủ yếu 
    qua nguồn tin riêng, trên các diễn đàn chứng khoán hoặc tin đồn. Một thực trạng nữa là đối với 
    các công ty chào bán lần đầu ra công chúng thực hiện đấu giá tại cơ sở, Ban giám đốc công ty 
    có xu hướng che giấu các thông tin để “dìm giá“ sao cho những người nội bộ công ty có thể 
    mua được cổ phiếu với giá thấp.
    Thứ hai, có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ thông tin 
    phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK ban hành chỉ 
    yêu cầu các Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư tham gia đấu giá và 
    tổng lượng CP đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến việc đặt giá như 
    số lượng nhà đầu tư tổ chức/nhà đầu tư nước ngoài tham gia đấu giá; số lượng CP đặt mua 
    của các đối tượng này, lại không được công bố cụ thể. Điều đáng nói là, những thông tin này 
    không được bảo mật chặt chẽ mà được cung cấp một cách riêng lẻ cho những đối tượng có 
    nhu cầu. Những người nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá 
    nhân tổ chức nào tham gia đấu giá sẽ tính toán được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó 
    chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác không có thông tin.3
    Sự rò rỉ thông tin còn thể hiện ở việc công bố các thông tin có lợi của công ty. Ví dụ đối với 
    các quyết định của Hội đồng quản trị như chia cổ tức bằng cổ phiếu thưởng, tăng quy mô 
    vốn… thông thường do các nguồn quan hệ cá nhân, một số nhà đầu tư còn biết trước khi Trung 
    tâm chứng khoán công bố vài ngày và đã tranh thủ thu mua cổ phiếu để chờ giá lên. Đến khi 
    các nhà đầu tư còn lại biết được thông tin thì đã quá muộn. Chính vì vậy, không có gì ngạc 
    nhiên khi đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam đang diễn ra theo hiện tượng “bầy 
    đàn”, vì có sự suy diễn rằng, việc mua hàng loạt hay bán hàng loạt cổ phiếu của một nhóm nhà 
    đầu tư nào đó là do có thông tin biết trước.
    Thứ ba, doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư: ưu tiên cung 
    cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không công bố rộng 
    rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy các cuộc đấu giá thì người đấu giá thành công 
    chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại trừ khả năng các nhà đầu tư tổ chức có kinh nghiệm, 
    kỹ năng phân tích và “trường vốn” hơn thì người ta cũng nghi ngờ các nhà đầu tư nhận được 
    nhiều thông tin chất lượng hơn so với các nhà đầu tư cá thể.
    Thứ tư là hiện tượng lừa đảo. Đây không phải là hiện tượng phổ biến trên thị trường chứng 
    khoán Việt Nam nhưng rất đáng cảnh báo các nhà đầu tư nghiệp dư, đặc biệt những người 
    không có kiến thức về chứng khoán và kinh tế lại có tham vọng làm giàu bằng kinh doanh 
    chứng khoán. Báo Vnexpress đăng tin, một số cá nhân đã lừa đảo bán cổ phiếu giả cho những 
    nhà đầu tư nhẹ dạ ở Hải Phòng để thu được gần 800 tỷ đồng.4 Tiếp đó là vụ lừa đảo hàng 
    chục tỷ đồng, lợi dụng lòng tin của những người chơi chứng khoán nhỏ lẻ để ôm tiền bỏ 

    12

  13. chạy.5
    Thứ năm là việc tung tin đồn thất thiệt. Trong thời gian 6 năm hoạt động của thị trường chứng 
    khoán, có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín của các công ty niêm yết. Các tin này thường 
    được tung ra trên các diễn đàn chứng khoán (forum), trên các sàn giao dịch chứng khoán, hoặc 
    được truyền miệng. Do nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm, kỹ năng để kiểm chứng nguồn thông 
    tin, đồng thời do cơ chế thông tin của doanh nghiệp còn yếu kém, chậm chạp nên dẫn đến gây 
    tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu trên thị trường. Trong khi 
    đó, các quy định của Nhà nước về việc xử phạt đối với việc tung tin đồn trên thị trường chứng 
    khoán vẫn còn trong giai đoạn soạn thảo. Cơ chế phát hiện đối với việc tung tin đồn cũng chưa 
    rõ ràng.
    Thứ sáu là các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ. Đây không phải 
    là hiện tượng phổ biến nhưng khiến cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp không mấy tin cậy vào 
    chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí. Ví dụ, thông tin về SJS “sập sàn” do báo Tiền 
    phong điện tử đăng ngày 12/1/20076. Thực chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ 
    phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công ty giảm tương ứng từ 728.000đ/CP xuống còn 
    190.000đ/CP. Mặt khác, về nội dung thông tin do cơ quan truyền thông cung cấp, chủ yếu vẫn 
    là tin tức, diễn biến thị trường, chưa có nhiều các thông tin nhận định phân tích mang tính định 
    hướng cho nhà đầu tư và thị trường.

    PHẦN 2: CHỨNG KHOÁN.
    C1: trình bày các đặc trưng của chứng khoán
    Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng,  xác định số vốn đầu 
    tư(tư bản đầu tư); chứng khoán xác nhận quyền sở hữu  hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao 
    gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản  trong một thời hạn nào đó.  Chứng khoán là một tài 
    sản tài chính có các đặc điểm cơ bản:
    Tính thanh khoản (Tính lỏng):
    ­ Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển  tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay 
    thấp phụ thuộc vào khoảng  thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc 
    giảm sút giá  trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với  các tài 
    sản khác, thể hiệnqua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường  và nói chung, các chứng 
    khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là  khác nhau.
    ­ Liên hệ: Tuỳ thuộc vào tình hình của các ngân hàng – xử lý nợ xấu và tái cấu trúc,…

     Tính rủi ro.
    ­ Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu  tác động lớn của rủi ro, bao gồm 
    rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ  thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại 
    rủi ro tác động tới toàn  bộ hoặc hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều 
    kiện  kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất v.v. Rủi ro  không hệ 
    thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm  nhỏ các tài sản. Loại rủi ro 
    này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát  hành. Các nhà đầu tưthường quan tâm tới việc 
    xem xét, đánh giá các rủi ro  liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, 
    nắm giữ  hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay 
    sự cân bằng về lợi tức ư người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ  khi người ta kỳ vọng 
    được bù đắp bằng lợi tức tăng thêm.
    ­ Liên hệ: Lợi nhuận của hệ thống ngân hàng từ nay đến hết năm 2015 sẽ khó ở mức cao do 
    NHNN sẽ tiếp tục đẩy mạnh xử lý nợ xấu toàn hệ thống.

    Chí phí dự phòng rủi ro sẽ tiếp tục tăng cao, bào mòn lợi nhuận của ngành ngân hàng nửa cuối 
    năm.
    13

  14. Từ năm 2016 trở đi lợi nhuận của ngành ngân hàng mới được kỳ vọng tăng trưởng mạnh.

    Bên cạnh đó, giá các cổ phiếu ngân hàng đã tăng mạnh trong các phiên giao dịch gần đây, vì 
    vậy việc các cổ phiếu này bước vào nhịp điều chỉnh trong ngắn hạn là điều hoàn toàn có thể 
    xảy ra.

    Thêm vào đó, nếu xét định giá thì mức P/B hiện tại của các cổ phiếu ngân hàng, VCB không 
    còn hấp dẫn khi chỉ số này ở mức 2,6 lần, cao hơn so với mức P/B trung bình khu vực khoảng 
    1,8 lần.

    Các cổ phiếu ngân hàng khác như ACB (P/B ở mức 1,3 lần), MBB (P/B ở mức 1 lần), CTG 
    (P/B ở mức 1,4 lần) hay BID (P/B ở mức 2 lần) đang được đánh giá hấp dẫn hơn.

    Tính sinh lợi.
    ­ Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó,  nhà đầu tưmong muốn nhận được 
    một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu  nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được phân 
    chia hàng năm và việc tăng  giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng 
    quan hệ  chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý ư mức độ chấp nhận  rủi ro 
    càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.

    ­LH: Đơn cử, Sacombank (STB) công bố trong ĐHCĐ năm 2013 sẽ trả cổ tức cho cổ đông ở 
    mức 16% (8% bằng tiền mặt và 8% bằng cổ phiếu). Nhưng theo cổ đông của STB, họ mới chỉ 
    nhận được có 8% cổ tức cho tới thời điểm này. Còn việc chi trả cổ tức năm 2014, STB điều 
    chỉnh xuống 10­12%. Ngân hàng Quân đội (MBB) và Eximbank (EIB) cũng thông báo giảm mức 
    chi trả cổ tức năm 2014. Trong đó, MBB đã quyết định tỷ lệ trả cổ tức 10%, giảm so với mức 
    11% của năm 2013. Vietcombank (VCB) cũng thống nhất giảm cổ tức 2014 xuống 10% so với 
    mức 12% của năm 2013…

    C2: So sánh TSTC và TS thực
    Tài sản thực là các loại tài sản trực tiếp tham gia quá trình sản xuất hàng hóa ­ dịch vụ của nền 
    kinh tế như: đất đai, nhà xưởng, máy móc, thiết bị…
    Ngược lại, tài sản tài chính là các loại tài sản không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất 
    hàng hóa ­ dịch vụ, như tiền, chứng khoán và các loại giấy tờ có giá… Các loại tài sản này chỉ 
    là những chứng chỉ bằng giấy hoặc có thể là những dữ liệu trong máy tính, sổ sách. Cụ thể 
    hơn, tài sản tài chính là những tài sản có giá trị không dựa vào nội dung vật chất của nó (giống 
    như bất động sản gồm nhà cửa, đất đai), mà dựa vào các quan hệ trên thị trường. Nó bao gồm 
    các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi ngân hàng, tiền tệ và các giấy tờ có giá 
    khác. Người chấp nhận thanh toán các tài sản tài chính trong tương lai gọi là người phát hành 
    (thường là chính phủ, các tổ chức và công ty). Người sở hữu các tài sản tài chính gọi là nhà đầu 
    tư. Giá trị của tài sản tài chính gọi là vốn tài chính.
    Tài sản tài chính tạo thuận lợi cho việc chuyển vốn nhàn rỗi từ người có vốn (nhà đầu tư) sang 
    người không đủ vốn (người phát hành). Tài sản tài chính có 2 chức năng cơ bản.
    Thứ nhất, nó là phương tiện để dòng tài chính có thể dịch chuyển từ nơi dư thừa sang nơi đang 
    thiếu, hoặc có cơ hội đầu tư sinh lợi.
    Thứ hai, nó là phương tiện để dịch chuyển rủi ro từ người đang triển khai phương án đầu tư 
    sang người cung cấp dòng tài chính cho các dự án đó. Tài sản tài chính cũng yêu cầu cao về lợi 
    tức mà các tài sản thực tạo ra. Nói cách khác, tài sản thực tạo ra lợi tức thuần cho nền kinh tế, 
    còn tài sản tài chính thì định ra sự phân phối lợi tức hoặc của cải giữa các nhà đầu tư.

    14

  15. Nhà đầu tư đem của cải của mình đi mua các loại chứng khoán (tài sản tài chính). Những 
    người phát hành chứng khoán (công ty, chính phủ…) sử dụng số tiền huy động được từ việc 
    phát hành chứng khoán để đầu tư mua tài sản thực như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công 
    nghệ, hàng hoá và thương hiệu. Khi đó, thu nhập từ chứng khoán của nhà đầu tư chủ yếu từ 
    lợi tức do các tài sản thực tạo ra và các tài sản thực này thì được tài trợ chủ yếu bằng việc phát 
    hành chứng khoán.
    Tài sản tài chính trên TTCK gồm các loại như:
    lChứng khoán lợi tức cố định: chứng khoán này được trả lợi tức cố định hàng năm như trái 
    phiếu chính phủ, trái phiếu công ty… Thông thường, lợi tức thấp do rủi ro rất thấp nếu tình 
    hình tài chính của công ty tốt và lành mạnh.
    lChứng khoán vốn (cổ phiếu thường): loại chứng khoán này luôn gắn liền với hiệu quả kinh 
    doanh và tài sản thực của công ty. Cổ tức tùy thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của 
    công ty hàng năm. Nếu công ty hoạt động hiệu quả, giá trị phần vốn tăng, ngược lại nếu hiệu 
    quả kém thì giá trị phần vốn sẽ giảm. Do đó, mức độ rủi ro là khá cao. Tuy nhiên, nếu phân 
    tích và dự đoán chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty thì mức lợi nhuận thu 
    được từ cổ tức và giá trị cổ phần đầu tư có thể rất cao.
    lChứng khoán có điều kiện: chẳng hạn như hợp đồng quyền chọn (option) và hợp đồng tương 
    lai (future). Loại chứng khoán này hiện rất thông dụng trên TTCK các nước do được sử dụng 
    linh động và thuận tiện trong các giao dịch trên thị trường nhưng chưa phát triển ở TTCK 
    Việt Nam.

    C3: Bình luận về những CK, doanh nghiệp đang được niêm yết tại SDGCKHCM, HN
    Sàn HCM

    Xét trên 1 nhóm ngành cụ thể: xét nhóm ngành kinh doanh BĐS có tổng cộng 37 mã đang giao 
    dịch vs tổng giá trị vốn hoá 138.786,87 tỷ dồng  
    2 mã có gt vốn hoá lớn nhất là Vic (vingroup) 80440,69 tỷ và HAG (hoàng anh gia lai) 10347,68 
    tỷ 

    Chém them theo 3 ý câu 1 
    Sàn HNX

    Tổng số lượng CK NY :  372 Tổng khối lượng NY (Cổ   10.455.924.420
    phiếu) :
    Tổng giá trị NY (Nghìn   104.559.244.20  152.904.108.263,6
    đồng)  0
    Upcom 

    Tổng số lượng CK   242 Tổng khối lượng ĐKGD   4.757.477.807

    15

  16. ĐKGD : (Cổ phiếu) :
    Tổng giá trị ĐKGD   47.574.778.070 Tổng giá trị thị trường   56.216.673.366,527
    (Nghìn đồng)  (Nghìn đồng) :

    Chém tương tự sàn HOSE

    C4: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến giá trị TP, CP. LIên hệ VN

                 
    I/ Lý thuyết
                  Có thể chia các yếu tố được xác định là có thể tác động đến giá cổ phiếu thành 3 
    nhóm: cơ bản, kỹ thuật và trạng thái thị trường. 
    1. Các yếu tố cơ bản 
                  Trên thị trường, giá cổ phiếu được xác định dựa trên nền tảng các yếu tố cơ bản là:
                  + (1) tình hình lợi nhuận (ví dụ chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phiếu – EPS)
                  + (2) hệ số định giá (ví dụ hệ số giá trên thu nhập mỗi cổ phiếu – P/E). EPS là thước 
    đo để xác định phần lợi nhuận công ty tạo ra trên mỗi cổ phiếu. 
                  Vì vậy, khi mua một cổ phiếu nào đó nghĩa là bạn mua một phần tương ứng của dòng 
    lợi nhuận công ty có thể tạo ra trong tương lai. Đây chính là cơ sở cho việc xác định P/E, hay 
    P/E thể hiện mức giá bạn sẵn sàng trả cho một phần của dòng lợi nhuận được hưởng trong 
    tương lai từ việc đầu tư vào cổ phiếu đó.
                  Một phần của dòng lợi nhuận được tạo ra này sẽ được chia dưới dạng cổ tức hay cổ 
    phiếu thưởng; phần còn lại sẽ được công ty giữ lại để tái đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất 
    kinh doanh. Dòng lợi nhuận tương lai là kết quả của mức lợi nhuận hiện tại và tỷ lệ tăng 
    trưởng trong tương lai. 
                  Cần lưu ý rằng, EPS là một thước đo phổ biến, nhưng ngoài ra còn có những thước đo 
    kế toán khác cũng được sử dụng để đánh giá tình hình lợi nhuận, ví dụ như cổ tức trên mỗi cổ 
    phiếu hay dòng tiền trên mỗi cổ phiếu. Đồng thời, bản thân EPS cũng có thể được điều chỉnh 
    theo những nguyên tắc tài chính nhằm tạo ra những con số phản ánh chính xác hơn về tình hình 
    lợi nhuận của công ty. 
                  Đối với hệ số định giá như P/E, thước đo này được quyết định bởi tỷ lệ tăng trưởng 
    lợi nhuận trong tương lai và tỷ lệ chiết khấu được dùng để quy dòng lợi nhuận trong tương lai 
    về giá trị hiện tại. 
    16

  17.               Nghĩa là một công ty có tỷ lệ tăng trưởng dự kiến cao sẽ dẫn đến hệ số định giá cao, 
    nhưng tỷ lệ chiết khấu cao sẽ khiến cho hệ số định giá thấp. Tỷ lệ chiết khấu phụ thuộc vào 
    mức độ rủi ro của loại cổ phiếu đó những yếu tố vĩ mô như lạm phát hay lãi suất cơ bản trong 
    nền kinh tế. 

    2. Các yếu tố kỹ thuật 

                  Trên thực tế, ngoài những yếu tố cơ bản (bên trong) kể trên, một số yếu tố kỹ thuật 
    (bên ngoài) cũng có những tác động đến tình hình cung­cầu của một loại cổ phiếu trên thị 
    trường. Một số yếu tố này ảnh hưởng một cách gián tiếp đến các yếu tố cơ bản.
    (1) Lạm phát. Ngoài tác động đến hệ số định giá đối với cổ phiếu đã đề cập trên đây, lạm phát 
    còn là một yếu tố kỹ thuật quan trọng. Kết quả nghiên cứu thực chứng cho thấy mức độ lạm 
    phát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với hệ số định giá cổ phiếu. Tình trạng giảm phát trong nền 
    kinh tế nhìn chung ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu.
    (2) Triển vọng của ngành. Giá cổ phiếu của một công ty thường gắn với triển vọng chung của 
    nền kinh tế và của ngành. Có một số nghiên cứu cho thấy rằng không phải kết quả hoạt động 
    riêng lẻ của một công ty, mà là sự kết hợp giữa tình trạng chung của nền kinh tế và triển vọng 
    của một ngành là yếu tố chính quyết định mức giá cổ phiếu của một công ty trong ngành đó.
    (3) Các loại tài sản đầu tư thay thế. Cổ phiếu công ty phải cạnh tranh thu hút nguồn vốn đầu 
    tư với nhiều loại tài sản đầu tư khác nhau trên thị trường, ví dụ như trái phiếu chính phủ, bất 
    động sản, vàng hay các loại ngoại tệ.
    (4) Các giao dịch bất thường: là việc mua hay bán cổ phiếu xuất phát từ những lý do khác, 
    không dựa trên cơ sở giá trị nội tại của loại cổ phiếu đó. Những giao dịch này bao gồm giao 
    dịch của các cổ đông nội bộ trong công ty hay giao dịch cổ phiếu quỹ, thường theo kế hoạch 
    được công bố trước. Mặc dù những giao dịch này không phải là các dấu hiệu để khẳng định 
    giá cổ phiếu sẽ lên hay xuống nhưng trong một chừng mực nào đó có thể tác động đến cung­
    cầu cổ phiếu, do đó tác động đến giá cổ phiếu.
    (5) Tính thanh khoản của một loại cổ phiếu phản ánh mức độ quan tâm của công chúng đầu tư. 
    Khối lượng giao dịch thường là một thước đo của tính thanh khoản.
    (6) Xu thế giá. Thông thường, giá cổ phiếu biến động theo những xu thế ngắn hạn. Khi giá 
    một loại cổ phiếu tăng sẽ hấp dẫn người đầu tư tham gia và tiếp tục tăng giá. Ngược lại, điều 
    tương tự cũng xảy ra với xu thế giảm giá. Điều đáng nói là những xu thế này chỉ trở nên rõ 
    ràng khi nhìn lại những gì đã qua, còn trên thực tế khó có thể xác định được những xu thế đó.
    (7) Nhân khẩu học. Từ thực tế các nhà đầu tư ở tuổi trung niên thường đầu tư dài hạn vào các 
    loại cổ phiếu còn người đầu tư lớn tuổi thường chuyển từ cổ phiếu sang các loại tài sản đầu 
    tư khác để phục vụ cho chế độ nghỉ hưu, các nghiên cứu nhân khẩu học cho thấy khi người 
    trung niên chiếm tỷ trọng lớn trong công chúng đầu tư, sức cầu đối với cổ phiếu cũng cao hơn 
    và hệ số định giá (P/E) cũng cao hơn.

    3. Trạng thái thị trường 

                  Trạng thái thị trường liên quan đến trạng thái tâm lý của từng thành viên tham gia thị 
    trường. Đây có lẽ là nhóm các yếu tố phức tạp nhất, vì vai trò hết sức quan trọng của chúng 
    được biết tới trong sư biến động giá cổ phiếu trên thị trường, nhưng những hiểu biết về chúng 
    mới chỉ là bắt đầu.
                  Mỗi người đầu tư đều có thể đưa ra các quyết định đầu tư cổ phiếu của mình trên cơ 
    sở các yếu tố khác nhau. Những người đầu tư ngắn hạn và các nhà giao dịch chứng khoán 
    thường ưu tiên các yếu tố kỹ thuật. Người đầu tư dài hạn chú trọng đến các yếu tố cơ bản, 
    song cũng nhận thấy tầm quan trọng của các yếu tố kỹ thuật. 

    17

  18.               Các yếu tố kỹ thuật và trạng thái thị trường thường quyết định giá chứng khoán trong 
    ngắn hạn, nhưng các yếu tố cơ bản sẽ quyết định giá chứng khoán về dài hạn.

    II/ Bình luận
     
                  Một điều dễ thấy các yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự lên xuống của thị trường 
    chứng khoán Việt Nam đó là: Sự làm giá của các đại gia chứng khoán;thông tin đại chúng một 
    chiều, thông tin vỉa hè không kiểm chứng, và thông tin bưng bít không công bằng; tâm lý đám 
    đông.
     
                  Cả ba yếu tố trên quyết định đến 70­80% sự lên xuống của thị trường (yếu tố chủ 
    quan), còn lại chỉ dưới 30% là yếu tố phát triển kinh tế khách quan. Điều này đã tạo một điều 
    kiện thuận lợi cho sự vơ vét túi tiền từ dân buôn nghèo đến túi tiền của các đại gia.
                  Đã có một số bài của các chuyên gia phân tích cho sự đi giảm xuống của thị trường, 
    các công ty lớn nước ngoài làm ăn thua lỗ, giá vàng và giá dầu tăng,… Sự phân tích của các 
    chuyên gia mới đầu nghe có vẻ ‘hoành tráng’. Tuy nhiên, nó không có liên quan nhiều đến sự 
    suy thoái của thị trường chứng khoán Việt Nam. Lý do là vì:
                  ­ Có bao nhiêu công ty làm ăn thua lỗ ở Mỹ  và các nước trên thế giới có sự làm ăn kinh 
    tế với các công ty ở trong nước. Điều cơ bản ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán trong 
    nước là kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp đang niêm yết trên sàn. Chừng nào họ còn 
    làm ăn tốt và chả có quan hệ gì đáng kể với các công ty làm ăn thua lỗ ở nước ngoài, thì cái 
    việc thị trường lên xuống ở nước ngoài gần như không có ảnh hưởng đáng kể đến thị trường 
    trong nước.
                  ­ Thị trường trong nước hiện nay còn quá nhỏ bé so với các thị trường chứng khoán 
    khác ở nước ngoài, nên hiệu ứng ‘bình thông nhau” gần như chưa có.
                  ­ Thực tế hiện nay cho thấy các công ty niêm yết trên sàn đều đang làm ăn tốt. Thị 
    trường chứng khoán nếu không có yếu tổ đầu cơ và thông tin trong suốt thì chắc chắn là do 
    yếu tố về kinh tế và chính trị. Hiện nay cả hai yếu tố trên ở trong nước đều khá ổn định. Chả 
    có lý do gì mà việc làm ăn của các công ty đều khá ổn định trong khi đó thị trường lại lên xuống 
    thất thường.

    Tổng quan TTCK 2014
    TTCK có sự tăng trưởng và xác lập mặt bằng vững chắc   TTCK Việt Nam năm 2014 có diễn 
    biến rất khả quan xét về các phương diện tốc độ tăng chỉ số, mức độ ổn định, khối lượng giao 
    dịch và phản ánh khá rõ nét những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế. Thị trường phát 
    triển theo chiều hướng tăng trưởng, mặc dù xen kẽ những khoảng điều chỉnh giảm. Chỉ số 
    VN­Index đã lập đỉnh tại mức điểm 640,75 (ngày 3­9) sau gần sáu năm đạt được, trong khi chỉ 
    số HNX­Index cũng đã lập đỉnh tại mức điểm 92,99 (ngày 24­3) sau đúng ba năm.   Tính đến 
    ngày 8­12­2014, chỉ số VN­Index đạt 571,68 điểm tăng 13,3% so với cuối năm 2013, còn chỉ số 
    HNX­Index đạt 87,17 điểm tăng 28,5% so với cuối năm 2013. 
      Tính đên ngày 8­12­2014, t
    ́ ổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 1.164 nghìn tỷ đông, tăng 
    ̀
    90% so với năm 2013; giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 5.448 tỷ đồng, trong đó giá trị 
    giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ bình quân mỗi phiên đạt 2.971 tỷ đồng, cao gấp 2,2 lần so 
    với năm 2013.  
     Huy động vốn qua TTCK tiếp tục duy trì ở mức cao   Tính đến ngày 8­12­2014, toàn bộ thị 
    trường đã có 1.240 loại chứng khoán niêm yết, trong đó bao gồm 671 doanh nghiệp (DN) niêm 
    yết, một chứng chỉ quỹ đóng niêm yết, một chứng chỉ quỹ ETF và 567 trái phiếu niêm yết. 
    Tổng giá trị niêm yết cổ phiếu, chứng chỉ quỹ là 425 nghìn tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2013; 
    trong đó giá trị niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh chiếm 78,19%. Mức 

    18

  19. vốn hóa thị trường tính đến ngày 8­12­2014 đạt khoảng 1.156 nghìn tỷ đồng, tăng 21,77% so với 
    năm 2013 và tương đương 32,24% GDP.  
     Tổng giá trị huy động vốn qua TTCK năm 2014 ước đạt 237 nghìn tỷ đồng, tăng 6% so với 
    cùng kỳ năm 2013 và đóng góp 27,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó tổng giá trị huy 
    động qua phát hành trái phiếu Chính phủ ước đạt 214 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 90% tổng 
    giá trị vốn huy động và gần tương đương với mức huy động vốn kỷ lục trong năm 2013. 
     Các sản phẩm mới bước đầu triển khai   Bên cạnh việc triển khai sản phẩm ETF (hai quỹ sẽ 
    vận hành trong năm 2014), cơ quan quản lý cũng đang tích cực nghiên cứu để có thể sớm triển 
    khai thí điểm quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí bổ sung. Bên cạnh đó, trên cơ sở Đề án về xây 
    dựng và phát triển TTCK phái sinh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 
    366/QĐ­TTg ngày 11­3­2014, Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo Nghị định về chứng khoán 
    phái sinh và TTCK phái sinh để trình Chính phủ trong tháng 12­2014. Đây là bước tiến quan 
    trọng trong việc tạo ra hành lang pháp lý cho việc triển khai các sản phẩm mới, tạo ra công cụ 
    phòng ngừa rủi ro cho nhà đầu tư, tăng sức hấp dẫn cũng như góp phần đưa TTCK Việt Nam 
    phát triển ở một tầm cao mới.   
    Tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán đạt kết quả tốt   Việc tái cấu trúc tổ chức 
    kinh doanh chứng khoán dựa trên các chỉ tiêu an toàn tài chính để tiến hành rà soát, đánh giá 
    phân loại công ty chứng khoán (CTCK), trên cơ sở đó tiến hành xử lý theo hướng hợp nhất, sáp 
    nhập, giải thể CTCK. Tính đến tháng 9­2014 đã có 20 CTCK chấm dứt và đình chỉ hoạt động, 
    giải thể, hợp nhất, giảm số CTCK thua lỗ từ 60% xuống còn dưới 20%. Ngoài ra, Ủy ban 
    Chứng khoán Nhà nước cũng đã thực hiện đánh giá, xếp loại các CTCK dựa trên quy chế 
    CAMEL. Theo đó, đã phân loại các CTCK thành các nhóm A, B, C, D, E để từ đó có phương án 
    theo dõi, xử lý đối với từng nhóm và tiến hành kiểm tra đối với các CTCK nằm trong nhóm D, 
    E để tiếp tục tái cấu trúc trong thời gian tới.  
     Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước gắn với niêm yết   Năm 2014, với việc 
    Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 51/2014/QĐ­TTg ngày 15­9­2014 về cổ phần hóa 
    DNNN, thoái vốn gắn với niêm yết, đồng thời cho phép cơ chế DNNN được thoái vốn dưới 
    mệnh giá và giá trị sổ sách đã tạo sự linh hoạt trong việc cải cách sắp xếp DNNN, góp phần hỗ 
    trợ công tác huy động vốn, nâng cao sức cạnh tranh, tạo sự minh bạch của DN.   Mặc dù vậy, 
    các giải pháp phát triển TTCK được đưa ra từ đầu năm 2014 vẫn chưa được triển khai đồng bộ 
    và nhiều giải pháp vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, soạn thảo, thí dụ như tăng tỷ lệ sở hữu 
    cho nhà đầu tư nước ngoài; phát hành cổ phiếu dưới mệnh giá, chế độ kế toán cho các loại 
    hình quỹ mới… Để thúc đẩy TTCK tiếp tục phát triển ổn định, bền vững, thu hút nhà đầu tư 
    trong đó có nhà đầu tư nước ngoài, cơ quan quản lý cần phối hợp với các thành viên thị trường 
    triển khai đồng bộ các giải pháp. 
      Một là, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm cho TTCK thông qua việc: (1) Xây 
    dựng cơ chế phát hành cổ phiếu dưới mệnh giá; (2) Giám sát xử lý các DN chào bán cổ phiếu 
    ra công chúng không đưa cổ phiếu vào giao dịch trong vòng một năm; (3) Khuyến khích DN 
    cung cấp thông tin bằng tiếng Anh và xây dựng báo cáo phát triển bền vững; (4) Xây dựng cơ 
    chế và lộ trình thực hiện Quản trị rủi ro cho các công ty niêm yết; (5) Hoàn chỉnh pháp lý để 
    sớm đưa vào vận hành các sản phẩm cơ cấu (Covered Warrant; NVDRs và các sản phẩm 
    Hedge); (6) Xây dựng pháp lý, hệ thống công nghệ thông tin và các hệ thống phụ trợ để sớm 
    đưa các sản phẩm phái sinh (Index Futures và Bond Futures) vào hoạt động.  
     Hai là, kích cầu và khơi thông dòng vốn trên cơ sở: (1) Triển khai nâng hạng TTCK Việt Nam 
    trên bảng MSCI; (2) Nâng tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng tại các DN niêm yết có sở hữu 
    nhà nước; (3) Rà soát, điều chỉnh và có cơ chế kiểm soát vốn từ ngân hàng sang TTCK để bảo 
    đảm an toàn hệ thống, hạn chế sở hữu chéo giữa các định chế ngân hàng và chứng khoán, bảo 
    hiểm, đặc biệt trong mô hình mẹ ­ con; góp phần thúc đẩy tái cấu trúc và tăng vốn ngân hàng 
    thương mại; (4) Nâng cao ý thức công bố thông tin của các DN và nhà đầu tư thông qua việc 
    đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật chứng khoán và TTCK tăng cường hiểu biết cho nhà đầu tư 

    19

  20. và DN; (5) Phát triển các định chế đầu tư chuyên nghiệp và xây dựng các quy định về xếp hạng 
    tín nhiệm, thiết lập tổ chức định mức tín nhiệm của Việt Nam; (6) Nghiên cứu xây dựng Quỹ 
    bảo vệ nhà đầu tư trong trường hợp các tổ chức trung gian tài chính giải thể, phá sản để bảo 
    đảm tài sản cho nhà đầu tư; (7) Xây dựng các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán các loại 
    hình sản phẩm mới như việc    cho các sản phẩm phái sinh được hạch toán theo giá thị trường; 
    (8) Tham gia đầy đủ các nguyên tắc của hội viên đối với Tổ chức quốc tế các ủy ban chứng 
    khoán (IOSCO) mà Việt Nam là thành viên cũng như tham gia thành viên các tổ chức quốc tế 
    khác về TTCK; (9) Phối hợp với các tổ chức quốc tế để tổ chức các Diễn đàn đầu tư tại Việt 
    Nam và nước ngoài để xúc tiến và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.  
     Ba là, tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán và hiện đại hóa cấu trúc thị trường theo 
    hướng: (1) Tiếp tục hợp nhất, giải thể, phá sản các công ty chứng khoán yếu kém, thua lỗ dựa 
    trên nền tảng các chỉ tiêu an toàn tài chính; (2) Cho phép tổ chức kinh doanh chứng khoán nước 
    ngoài mua để sở hữu đến 100% công ty chứng khoán trong nước; (3) Hợp nhất các Sở giao dịch 
    Chứng khoán và phát triển, phân định các khu vực thị trường: Thị trường cổ phiếu, thị trường 
    trái phiếu và hình thành thị trường sản phẩm phái sinh để nâng cao vị thế của Sở giao dịch 
    chứng khoán Việt Nam trong khu vực Asean; (4) Hoàn thiện đầu tư CNTT cho toàn thị trường 
    theo hướng hiện đại, thống nhất; (5) Nghiên cứu hệ thống vay/cho vay chứng khoán mục đích 
    để phục vụ thanh toán bù trừ; xây dựng hệ thống phục vụ các sản phẩm phái sinh; (6) Đào tạo, 
    tuyên truyền quảng bá về thị trường và các sản phẩm mới.

    C5: so sánh CP thường và ưu đãi 
    Giống nhau:
    ­          Cùng là ck vốn kô có kỳ hạn và kô hoàn vốn
    ­          Ng` nắm giữ cp là cổ đông đồng sở hữu công ty
    ­          Phần vốn góp đc xem như góp vĩng viễn kô đc rút lại, khi cần họ có thể đem bán trên 
    ttck để lấy lại vốn góp.
    Khác nhau:
    ­          Cổ phiếu thường:
    + Là loại ck xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của ng` sở hữu đối với 1 phần vốn cổ 
    phần của tổ chức phát hành. Là cổ phiếu bắt buộc phải có của mọi công ty cổ phần
    + Đặc điểm: Cổ tức kô cố định, phụ thuộc vào: mức lợi nhuận thu đc hàng năm của công 
    ty, chính sách phân chia cổ tức của công ty
    + Thị giá cp rất nhạy cảm trên thị trg`, phụ thuộc vào: lợi nhuận công ty, quy luật cung cầu,

    + Ng` sở hữu cp có quyền đề cử, biểu quyết, nhận cổ tức, mua cổ phiếu phát hành mới
    + Tự do mua bán chuyển nhượng (ngoại trừ một số ràng buộc)
    + Được niêm yết, giao dịch trên ttck
    ­          Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu cho phép ng` nắm giữ cổ phiếu đc hưởng 1 số ưu đãi 
    hơn so với cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường. Ví dụ như:
    + Đc hưởng 1 mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm dù công ty làm ăn có lãi hay 
    kô (cổ phiếu ưu đãi cổ tức). Tuy nhiên khi lợi nhuận của cty tăng lên thì cổ tức cổ phiếu ưu 
    đãi kô vì thế mà đc tăng theo.
    + Được ưu tiên chia lãi cổ phần trc cổ phiếu thường (Ln công ty thu đc trc tiên dùng để trả 
    trái tức, tiếp theo là trả cổ tức của cổ phiếu ưu đãi cuối cùng còn bn mới chia cho các cổ 
    đông cp thường)
    + Đc ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi thanh lý, giải thế.
    Khác vs cố phiếu thg`, cp ưu đãi có thể có or kô có mệnh giá. Chẳng hạn 1 cp ưu đãi mệnh 
    giá 100USD, tỷ suất cổ tức là 4.5% sẽ đc hưởng 1 khoản cổ tức cố định là 4.5USD. Còn 
    nếu cp ưu đãi kô có mệnh giá thì cổ tức sẽ đc cty công bố đơn giản là 5USD/ cổ phiếu

    20

ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD


  • TÀI CHÍNH TIỀN TỆ – PGS.TS Sử Đình Thành

    pdf 10 p | 863
    | 159


  • GIÁO TRÌNH HỌC MÔN NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN

    pdf 36 p | 267
    | 115


  • ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP CÁC MÔN CHUYÊN NGÀNH TCDN

    doc 2 p | 256
    | 52


  • môn học DỊCH VỤ NGÂN HÀNG HiỆN ĐẠI – Bài 1 : Tổng quan về nhiệm vụ NHTM

    ppt 12 p | 163
    | 43


  • Đề cương cụ thể học phần môn Thanh toán quốc tế

    pdf 0 p | 276
    | 26


  • Bài giảng môn Lý thuyết kinh tế tài chính tiền tệ – ThS. Phan Anh Tuấn

    pdf 107 p | 124
    | 25


  • ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

    pdf 6 p | 176
    | 23


  • Đề cương cụ thể học phần môn Thị trường kinh tế tài chính

    pdf 2 p | 190
    | 13


  • Đề cương cụ thể học phần : Định giá đất và

    pdf 3 p | 76
    | 8


  • Đề cương cụ thể học phần : Quản lý thị trường

    pdf 5 p | 65
    | 8


  • ĐỀ THI HẾT HỌC PHẦN LẦN 1 MÔN TIN HỌC ĐẠI CƯƠNG MÃ ĐỀ : IT001. 0809.11.15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. Hồ Chí Minh

    pdf 5 p | 79
    | 3


  • Đề cương môn học kinh tế tài chính – tiền tệ – Đại học mở tp. hồ chí minh

    pdf 8 p | 66
    | 3


  • Bài giảng Kế toán kinh tế tài chính 2 : Đề cương môn học – Nguyễn Thị Ngọc Điệp ( 2017 )

    pdf 4 p | 81
    | 2


  • Bài giảng Kế toán kinh tế tài chính 2 : Chương 0 – Nguyễn Thị Ngọc Điệp ( Hệ ĐTĐB )

    pdf 4 p | 45
    | 1


  • Đề cương chi tiết cụ thể học phần ( Học phần kim chỉ nan hoặc triết lý và thực hành thực tế ) : Tài chính tín dụng thanh toán nông thôn

    doc 8 p | 42
    | 1

Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn :

    Đồng ý

    Thêm vào bộ sưu tập mới :

    *Tên bộ sưu tập

    Mô Tả :

    *Từ Khóa:

    Tạo mới

    Báo xấu

    YOMEDIA

    Đang giải quyết và xử lý …

    Login thành công!

    AMBIENT

    Source: https://suanha.org
    Category : Thị Trường

    Alternate Text Gọi ngay
    Liên kết hữu ích: XSMB