Giêsu (chữ Nôm: 支秋,[7] còn được viết là Giê-su, Giê-xu, Yêsu, Jesus, Gia-tô[8]; khoảng 4 TCN – 3 tháng 4, 33 SCN), còn được gọi là Giêsu Kitô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc là một nhân vật lịch sử người Do Thái, nhà giảng thuyết, người sáng lập ra Kitô giáo vào thế kỉ thứ 1. Tên gọi Giêsu trong tiếng Hebrew có nghĩa là Yehoshua (יהושע – “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע). Đối với người đương thời, Giêsu còn được gọi là Giêsu thành Nazareth, hoặc Giêsu con ông Giuse. Từ Kitô (tiếng Latinh: Christus, tiếng Hy Lạp: Χριστός Khristós, hay Cơ-đốc theo phiên âm Hán Việt) là một danh hiệu của Giêsu, có nghĩa là “người được xức dầu”, nhằm chỉ ông là đấng Messiah, đã được tiên báo trong Cựu Ước. Những gì chúng ta biết được về Giêsu là do được ghi chép trong Thánh Kinh Tân Ước, đặc biệt là trong bốn sách Phúc Âm.
Những nguồn thông tin chính về cuộc sống và những lời dạy của Giêsu là bốn sách Phúc Âm quy điển, đặc biệt quan trọng là trong Phúc Âm Nhất Lãm, [ 9 ] [ 10 ] mặc dầu nhiều học giả cho rằng những văn bản như Phúc Âm Tôma và Phúc Âm Hebrew [ 11 ] [ 12 ] cũng xác đáng. [ 13 ]
Trong Hồi giáo, Giêsu (tiếng Ả Rập: عيسى, chuyển tự là Isa) được xem là một nhà tiên tri quan trọng của Thiên Chúa[14][15], người mang lại Injil (Phúc Âm), và là người làm những phép lạ. Hồi giáo cũng xưng nhận Giêsu là Đấng Masih (Messiah), nhưng họ không dạy rằng Giêsu mang đặc tính thần linh. Quan điểm của Hồi giáo cho rằng Giêsu đã lên thiên đường cả linh hồn và thể xác nhưng không trải qua việc đóng đinh vào thập tự giá và phục sinh,[16] khác với niềm tin truyền thống của Kitô giáo về cái chết và sự phục sinh của Giêsu.
Bạn đang đọc: Giê-su – Wikipedia tiếng Việt
Tiếng Hebrew, Hy Lạp và phiên âm Latin tên của Chúa Giêsu
Người Do Thái đương thời thường thêm tên người cha hoặc tên quê quán vào tên gọi cá nhân.[17] Như vậy, trong Tân Ước, Giêsu cũng được gọi là “Giêsu thành Nazareth” (Mátthêu 26:71)[18], “con ông Giuse” (Lc 4:22) hoặc đầy đủ nhất là “Giêsu con ông Giuse thành Nazareth” (Ga 1:45)[19]. Tuy nhiên, trong Máccô 6:3 thì lại gọi là “con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon”[20]. Tên Giêsu ngày nay trong các ngôn ngữ hiện đại có nguồn gốc từ Iesus trong tiếng Latinh, đây là một hình thức chuyển tự của chữ Ἰησοῦς (Iesous) từ tiếng Hy Lạp.[21] Hình thức thể hiện của tiếng Hy Lạp lại bắt nguồn từ chữ ישוע (Yeshua) trong tiếng Aram, nhưng tựu trung có nguồn gốc từ chữ יהושע (Yehoshua) của tiếng Do Thái.[22][23] Tên Yeshua dường như đã được sử dụng trong xứ Judea tại thời điểm Giêsu ra đời.[24] Theo giải thích của Tân Ước, tên gọi này nghĩa là “Giavê là sự cứu rỗi”.
Các tín đồ sơ khai đã thường gọi là “Chúa Giêsu Kitô”. Từ Ki-tô (hay Ki-ri-xi-tô, chữ Nôm: 基移吹蘇), cũng phiên âm là Cơ-đốc (hay Cơ-lợi-tư-đốc, chữ Hán: 基利斯督), không phải là tên nhưng là một danh hiệu. Trong tiếng Hy Lạp, Χριστός (Khristos) có nghĩa là “người được xức dầu”, được dịch từ tiếng Hebrew Messiah, để gọi vị lãnh đạo được Thiên Chúa sai đến giải cứu dân Chúa, trong ngôn ngữ hiện đại được hiểu là “Đấng cứu thế”.[21][27] Chữ Kitô hữu được chỉ những người tin và theo Chúa Kitô.
Theo ký thuật của các sách Phúc Âm, Giêsu xưng mình là Con người (the Son of man – tức “Con của loài người”, “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có chỗ tựa đầu” – Mt 8:20). Danh xưng này thường được cho là để khẳng định Giêsu là một con người trọn vẹn cũng như Giêsu được gọi là Con Thiên Chúa (the Son of God, “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” – Mt 27:54) để khẳng định Giêsu đồng thời cũng là Thiên Chúa cách trọn vẹn.[28].
Ngoài ra, Giêsu còn có một số danh xưng khác như “Đấng Tiên tri”, “Chúa”. Trong Phúc Âm Gioan 14:6 chép: “Đức Chúa Giêsu phán rằng: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Theo đức tin Kitô giáo, Giê-su là con Đức Chúa Trời, và được sinh ra trên Trái Đất và chịu đóng đinh, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, nên Giê-su còn được xưng tụng là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Rỗi, Cứu Chúa – “Nhưng Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Chúa Cơ Đốc vì chúng ta chịu chết“. (Roma 5:8).
Hầu hết những học giả đồng ý chấp thuận rằng Giêsu là một người Do Thái vùng Galilea, sinh vào tầm đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời trong khoảng chừng từ năm 30 đến 36 SCN tại xứ Judea, ông chỉ sống và hoạt động giải trí tại Galilea và Judea chứ không ở nơi khác [ 29 ] [ 30 ]. Các sách Phúc Âm chỉ tập trung chuyên sâu vào quãng đời ba năm cuối khi Giêsu sống dưới trần gian, đặc biệt quan trọng là tuần lễ sau cuối trước khi bị đóng đinh vào thập giá, nhưng chúng cũng phân phối 1 số ít manh mối tương quan đến năm sinh của Chúa Giêsu. Đoạn Mátthêu 2 : 1 link sự giáng sinh của Chúa Giêsu với sự quản lý của Herod Đại đế – người đã chết vào khoảng chừng năm thứ 4 trước Công nguyên, và đoạn Luca 1 : 5 viết rằng Herod đã trị vì trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, ngoài những Phúc Âm này còn đề cập đến cuộc tìm hiểu dân số của chính quyền sở tại La Mã diễn ra mười năm sau đó. Luke 3 : 1-2 và 3 : 23 viết rằng Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ khi ông khoảng chừng ba mươi tuổi, và đó là năm thứ 15 của triều đại Tiberius ( khoảng chừng năm 28 hoặc 29 Công Nguyên ). Qua những chi tiết cụ thể này và bằng những chiêu thức nghiên cứu và phân tích khác nhau, hầu hết những học giả đi đến đồng thuận rằng Chúa Giêsu sinh trong khoảng chừng từ năm thứ 6 đến 4 trước Công nguyên ,Về thời gian qua đời, tức là sự kiện ông bị đóng đinh trên cây thập giá, hầu hết những học giả chấp thuận đồng ý rằng sự kiện này xảy ra trong khoảng chừng từ năm 30 đến 33 Công nguyên. [ 32 ] Các sách Phúc Âm nói rằng sự kiện này xảy ra trong thành xứ Judea mà Pilate là tổng trấn thuộc quyền La Mã khoảng chừng năm 26-36. [ 34 ] Người ta tin rằng ngày mà Phaolô theo Kitô giáo ( ước tính khoảng chừng năm 33-36 ) có mối liên hệ nào đó đến cho ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh qua việc nghiên cứu và phân tích thư của Thánh Phaolô và Sách Công vụ Tông đồ. [ 35 ] Các nhà thiên văn từ thời Isaac Newton đã nỗ lực ước đạt đúng chuẩn ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh bằng cách nghiên cứu và phân tích hoạt động của Mặt Trăng và tính theo lịch sử vẻ vang của lễ Vượt Qua theo lịch của người Do Thái. Và ngày giả thiết được đồng ý thoáng rộng nhất theo giải pháp này là ngày 7 tháng 4, năm 30 AD ; và ngày 3 tháng 4 năm 33 ( kể cả lịch Julius ) .
Trong Kinh thánh Tân Ước, cuộc sống và tư tưởng của Giêsu được giao giảng lại theo những sách Phúc Âm ( gồm có : Phúc Âm Mátthêu, Phúc Âm Máccô, Phúc Âm Luca và Phúc Âm Gioan ), ngoài kinh thánh Tân Ước, cuộc sống chúa Giê-su còn có trong thư tín của Thánh Phaolô được viết trước sách Phúc Âm nhiều thập kỷ, gồm có nhiều cụ thể quan trọng như ” Bữa ăn tối ở đầu cuối “. [ 36 ] [ 37 ] Trong Sách Công vụ Tông đồ có đề cập đến những thiên chức và những tiên đoán về Giêsu bởi Gioan Tẩy Giả .
Giê-su là một người Do Thái tôn trọng lao lý Moses ( kinh Torah ), là nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường sự không tương đồng với giáo quyền Do Thái, và ở đầu cuối, là người bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền sở tại Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái .Theo đó, Giêsu sinh tại Belem ( gần Jerusalem ). Mẹ của Giêsu, Maria ( Mary ), là một phụ nữ đồng trinh đã mang thai bởi quyền lực siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Giuse ( Joseph ), chồng của Maria, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của Giêsu, dẫn đến những suy đoán rằng ông qua đời trước khi Giêsu mở màn đi giảng dạy. [ 38 ] [ 39 ] Theo những sách Phúc Âm, khi Giêsu sinh ra, những mục đồng được thiên sứ báo tin đã đến thờ lạy và những nhà thông thái ( còn gọi là những nhà chiêm tinh, những đạo sĩ, hoặc ba vua ) từ phương Đông xa xôi, được dẫn dắt bởi một ngôi sao 5 cánh lạ, đã tìm đến để tôn thờ Giêsu .Phúc Âm Máccô 6 : 3 ký thuật rằng ” Giêsu là con của Maria, anh của Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon “. Josephus, sử gia Do Thái, và Eusebius, sử gia Kitô giáo, có nhắc đến Người Công chính như là em ruột của Giêsu. Tuy nhiên, Hieronymus cho rằng Giacôbê chỉ là em họ của Giêsu. Cách lý giải này đặt nền tảng cho truyền thống cuội nguồn Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương tin rằng Maria đồng trinh trọn đời .
Ngay sau khi chịu lễ Thanh Tẩy ( lễ Rửa Tội ) bởi Gioan Baotixita, Giêsu khởi đầu đi rao giảng, khi ấy khoảng chừng ba mươi tuổi. Theo Phúc Âm Luca, Giêsu và Gioan Baotixita là đồng đội họ vì Maria và Elizabeth, mẹ của Gioan, là hai chị em họ . Phúc Âm Luca viết trên một giấy cói bằng chữ Hy Lạp ở thế kỷ thứ III
Theo Kinh Thánh, Giêsu đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Giêsu sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Giêsu có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giêsu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo (synagogue).
Giêsu áp dụng các phương pháp khác nhau khi giảng dạy, phép nghịch lý, phép ẩn dụ và các truyện dụ ngôn. Ông thường tập trung vào Nước Trời (hay Thiên Quốc). Nổi tiếng nhất là Bài giảng trên núi, trong đó đề cập đến Tám Mối Phúc thật (Beatitudes). Trong số những dụ ngôn của Giêsu, được biết đến nhiều nhất là hai câu chuyện: Người Samaria nhân lành và Người con trai hoang đàng. Giêsu có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (hoặc tông đồ), Phêrô được Công giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Giêsu làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma và khiến một người đàn ông tên là Lazarô sống lại khi đã chết.
Giới chỉ huy Do Thái giáo gồm có những nhóm quyền lực tối cao đối nghịch nhau như nhóm Sadducee và nhóm Pharisêu ( Pharisee ) thường sự không tương đồng với Giêsu. Ông vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như niềm tin đạo đức giả của người Pharisêu. Nhiều người xem Giêsu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giêsu như một thế lực mới đang rình rập đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận Giêsu là ” Đấng Cứu Tinh ” ( Messie, Messiah ) đến để cứu chuộc trái đất .
Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: “Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp”. Sau đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền.
Tòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho những quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục làm mưa làm gió. Dưới áp lực đè nén của giới chỉ huy tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilatus ( Philatô ) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu. Tuy nhiên, theo những sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ viết tắt INRI ( của câu : ” Giêsu người Nazareth, vua dân Do Thái ” ) được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate .Sau khi Giêsu chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn với sự tận mắt chứng kiến của Maria, Maria Magdalena và những phụ nữ khác .
Chúa Giêsu hiện lên với Maria Madalena, tranh 1835 do
, tranh 1835 do Alexander Andreyevich Ivanov vẽ.
Các Kitô hữu tin rằng Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là sự Phục hồi của Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh .Trong Kinh Thánh, Maria Madalena ( đi một mình trong Phúc Âm Gioan nhưng có những người phụ nữ khác đi cùng trong Phúc Âm Nhất Lãm ) đến ngôi mộ của Giêsu vào sáng sớm ngày Chủ nhật và giật mình thấy ngôi mộ rỗng. Mặc dù đã nghe lời dạy của Chúa Giêsu, những môn đệ vẫn không hiểu rằng Chúa Giêsu sẽ trỗi dậy .
Hầu hết Kitô hữu chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho Đức tin Kitô giáo của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ. Tuy nhiên lịch sử chứng minh đây là niềm tin bất di dịch của Kitô giáo. Tất cả Kitô hữu tin rằng Giêsu đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ và các tông đồ được ban cho quyền lực siêu nhiên bởi ơn Chúa Thánh Thần để chữa lành bệnh tật cho nhiều người và nói được nhiều thứ tiếng khác nhau sau khi Giêsu về trời.
Xứ Palestine thời Giêsu sốngThế giới đương thời mà Giêsu sống luôn dịch chuyển, được ghi lại bởi những bế tắc tiếp nối đuôi nhau nhau cả về văn hoá và chính trị. Về văn hoá, vì người Do Thái phải vật lộn với nền triết học và những giá trị của văn minh Hy Lạp và với sự xích míc nội tại của kinh Torah, vì trong khi kinh Torah mặc khải những chân lý có giá trị cho toàn thể trái đất thì những luật lệ của nó chỉ vận dụng riêng cho người Do Thái. Tình thế này dẫn dắt họ đến những cách giải kinh mới chịu ảnh hưởng tác động của tư tưởng Hy Lạp và nhằm mục đích cung ứng quyền lợi và nghĩa vụ của người không thuộc chủng tộc Do Thái đã gia nhập Do Thái giáo .
Vào thời điểm Giêsu sinh ra, lãnh thổ Israel thuộc Đế quốc La Mã, nhưng đặt dưới quyền cai trị của Herôđê Đại Đế. Vào năm 4, Hoàng đế La Mã Augustus phế truất Herod Archelaus, con của Herôđê Đại Đế và đặt các xứ Judea, Samaria và Idumea dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền La Mã, được giám sát bởi một quan tổng đốc, người này có quyền bổ nhiệm chức Thượng tế của Do Thái giáo. Tình trạng này kéo dài cho đến năm 64. Xứ Galilea, nơi Giêsu lớn lên, vẫn dưới quyền cai trị của Herod Antipas (một người con khác của Herôđê Đại Đế). Khi ấy Nazareth là một làng quê nhỏ bé với vài trăm cư dân, không có hội đường Do Thái giáo (synagogue), cũng không có cơ sở công cộng nào. Không có vàng, bạc hay sản phẩm nhập khẩu được tìm thấy ở đây trong cuộc khai quật khảo cổ.
Vài phe nhóm tranh giành tác động ảnh hưởng với nhau trong hội đồng Do Thái như nhóm Saducee, có quan hệ mật thiết với giới tư tế và Đền thờ, trong khi nhóm Pharisêu có nhiều tác động ảnh hưởng trong vòng những học giả, giáo sư và chỉ huy những hội đường. Các nhóm này chống đối sự chiếm đóng của Đế quốc La mã nhưng vào thời Giêsu họ vẫn cố kềm chế để không có phản ứng công khai minh bạch nào .
Nhiều người kỳ vọng vào sự xuất hiện của một vị Cứu Tinh (Messiah), hậu duệ của vua David để giải phóng họ khỏi sự cai trị của người La Mã. Theo đức tin Do Thái, lịch sử được điều khiển bởi Thiên Chúa, có nghĩa là sự chiếm đóng của người La Mã là một phần trong hoạch định của Ngài. Vì vậy đế quyền La Mã cần được thay thế bởi một vị vua Do Thái nhờ sự can thiệp siêu nhiên. Những người thuộc nhóm quá khích tin rằng chẳng bao lâu Vương quốc Do Thái sẽ được phục hồi và họ chuẩn bị các phương tiện để chống người La Mã. Các phản ứng của người La Mã cuối cùng dẫn đến sự phá đổ Đền thờ và sự suy vong của các nhóm kể trên.
Theo hầu hết những lý giải Kinh Thánh của Kitô giáo, những chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Giêsu là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện kèm theo, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về Thiên đường. [ 40 ] Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái, [ 41 ] nó đã tăng trưởng và trở thành một tôn giáo riêng không liên quan gì đến nhau so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Giêsu. Kitô giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới dạng được biết đến qua Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn quốc tế. C. S. Lewis và Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bảo vệ niềm tin vào Giêsu trước những sự chỉ trích mang tính lịch sử dân tộc .
Hầu hết Kitô hữu tin rằng, Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự Open đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Giêsu là Thiên Chúa hóa thân thành người, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi ; rằng Giêsu nhập thể bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, xuống trần gian để cứu trái đất khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Giêsu đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và sau đó trở lại Thiên Đàng .
Khác với đức tin của người Kitô giáo, tín đồ Hồi giáo tin rằng, Giêsu là một trong những nhà tiên tri ( ngôn sứ ) đáng được tôn trọng, được Thiên Chúa sai đến và là Đấng Messiah ; nhưng họ không tin Giêsu là ” Con Thiên Chúa “. Họ cũng không tin về sự chết và sự Phục hồi của Giêsu, xem đó chỉ là sự hóa phép của Thiên Chúa dành cho tiên tri Giêsu để đánh lừa người đương thời. Sau đó, Giêsu về trời cả hồn lẫn xác .
Do Thái giáo thì cực lực phản đối cả hai niềm tin của hai tôn giáo trên. Họ không xem Giêsu là Thiên Chúa xuống thế làm người cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí còn coi đó là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào Open thêm nữa. Cho đến tận giờ đây, họ vẫn đang kỳ vọng có một Đấng Messiah từ trời xuống .
Phật giáo phần đông không đưa ra nhận định và đánh giá về vai trò của Giêsu trong tôn giáo họ. Đối với họ, dựa theo lịch sử vẻ vang, Giêsu chỉ là một con người. Tuy nhiên, một số ít Fan Hâm mộ thuộc 1 số ít phái cho rằng, với những đức tính hiển nhiên của Giêsu, chắc như đinh sau đó Giêsu cũng được sinh vào cõi trời dựa theo luật nhân quả. Do đó, những người tu theo Phật giáo cấp tiến, nhất là Tịnh độ tông, hoàn toàn có thể tôn kính Giêsu như một vị A-la-hán hay Bồ tát [ 42 ] .Một số Phật tử, trong đó có Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 [ 43 ] xem Giêsu như một vị đại Bồ tát, người góp sức đời mình cho niềm hạnh phúc của trái đất. Nga Sơn Thiều Thạc ở thế kỷ XIV của Tào Động tông ý niệm rằng những lời dạy của Giêsu trong Sách Phúc Âm do một người đã được giải thoát ( arahant ) viết. [ 44 ]
Một người Nhật theo chủ nghĩa vô chính phủ, Kōtoku Shūsui có viết tác phẩm Kirisuto Massatsuron (基督抹殺論, Cơ Đốc Mạt Sát Luận). Trong tác phẩm này, Shūsui cho rằng Giêsu chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực.[45][46].
Vì có vai trò đặc biệt quan trọng trong một số ít tôn giáo này, Giêsu được nhìn nhận là một trong những nhân vật quan trọng nhất và có ảnh hưởng tác động sâu rộng nhất trong lịch sử vẻ vang quả đât .
3
hay 2 TCN.[4]Meier viết rằng năm sinh của Giê-su là k.hay 6 TCN. Rahner cùng với các học giả khác khẳng định là k. Sanders cũng đồng tình là k. Finegan đã thực hiện việc nghiên cứu các truyền thống Cơ đốc giáo ban đầu cho rằng là k.hay 2 TCN.
Source: https://suanha.org
Category : Ngoại Thất