Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long. Miếu được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế. Văn Miếu Huế hay Văn Thánh Huế là cách gọi tắt của Văn Thánh Miếu được xây dựng tại Huế
Văn bia đề danh Tiến sĩ nho học Nước Ta, khoa thi năm Mậu Tuất ( 1838 ) đặt tại Văn Thánh Miếu Huế, bia thứ 6 nhà bia Hữu vu .Khi những chúa Nguyễn mở mang khám phá phương Nam, Văn Miếu được thiết lập ở Phú Xuân, tại làng Triều Sơn và được xem như Văn Miếu riêng của Đàng Trong, nhưng không rõ thời gian thiết kế xây dựng. Đến năm Canh Dần ( 1770 ) dưới triều của Định Vương Nguyễn Phúc Khoát, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ. Đến thời nhà Nguyễn, Văn Miếu được kiến thiết xây dựng dưới triều vua Gia Long, ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ, tức miếu thờ cha mẹ của Khổng Tử .
Việc xây dựng Văn Miếu được tiến hành từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 18 tháng 9 năm 1808, vua Gia Long ra lệnh làm các đồ tự khí mới để thờ, thay thế các đồ cũ và tượng thánh hiền được thay bằng bài vị.
Bạn đang đọc: Văn miếu (Huế) – Wikipedia tiếng Việt
Suốt thời Gia Long trị vì, triều đình nhà Nguyễn chỉ mở những khoa thi hương nên không có tấm bia tiến sỹ nào được dựng ở Văn Miếu. Đến thời Minh Mạng mới mở những khoa thi hội, nên bia tiến sỹ cũng khởi đầu được dựng. Các ” tiến sỹ đề danh bi ” được lần lượt dựng lên ở sân Văn Miếu từ năm 1831 đến năm 1919, năm có khoa thi Hội ở đầu cuối dưới thời vua Khải Định .Văn Miếu Huế đã được tu sửa, làm mới 1 số ít đồ thờ và thiết kế xây dựng thêm 1 số ít công trình phụ vào những năm 1818 ( thời Gia Long ) ; 1820, 1822, 1830, 1840 ( thời Minh Mạng ) ; 1895, 1903 ( thời Thành Thái ). Đến năm 1947, khi quân đội Pháp tái chiếm Huế và đồn trú tại đây đã gây thiệt hại cho di tích lịch sử này. Lúc đó, những bài vị thờ ở Văn Thánh được đưa về dữ gìn và bảo vệ tại chùa Thiên Mụ [ 1 ] .
Bia tiến sĩ tại Văn Thánh Huế
Phía ngoài cổng Đại Thành, bên trái có Hữu Văn Đường ; bên phải xây Duỵ Lễ Đường. Đây là những ngôi nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục trước khi vào tế ở miếu. Phía trước là hai dãy gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị Tiến sĩ triều Nguyễn, khởi đầu từ khoa thi tiên phong năm Minh Mạng thứ 3 ( 1822 ) đến khoa thi sau cuối vào năm Khải Định thứ 4 ( 1919 ) .Trước cổng Văn Miếu, gần bờ sông có cửa Linh Tinh Môn gồm bốn trụ xây bằng gạch, phần trên trang trí pháp lam. Tấm biển ở giữa phía trước có đề bốn chữ Hán lớn ” Đạo Tại Lưỡng Gian ” ( đạo giữa trời đất ) ; mặt sau đề bốn chữ Hán tương tự ” Trác Việt Thiên Cổ ” ( vượt cao ngàn xưa ). Hai bên khu vực trước cổng Văn Miếu có tấm bia ” Khuynh cái hạ mã ” ( nghiêng lọng xuống ngựa ) .Văn Miếu Huế được kiến thiết xây dựng ngoài việc thờ Khổng Tử còn thờ Tứ Phối : Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử, cùng Thập Nhị Triết. Đông Vu và Tây Vu gồm 14 án, thờ những Tiên Hiền và Tiên Nho, những người có công trong việc tăng trưởng đạo Nho. Đối với việc thờ phụng, triều Nguyễn cho lập bài vị bằng gỗ gọi là linh vị, mộc chủ, thần chủ để thờ và buộc toàn bộ những địa phương nơi nào thờ Khổng Tử bằng hình tượng đều phải sửa chữa thay thế bằng bài vị mộc chủ, còn những tượng thì phải lựa chọn nơi thật sạch chôn đi vì triều Nguyễn cho rằng thờ bằng hình tượng là thiếu sang chảnh, thiếu lễ độ so với người đã khuất, cho nên vì thế ngay cả bàn thờ cúng những vua Nguyễn cũng không hề thờ bằng hình tượng .
Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u
Trên 32 tấm bia đá tại Văn Thánh Huế, có ghi họ tên, tuổi tác và quê quán của 293 vị tiến sỹ, một số ít nhân vật đó là : Phan Thanh Giản ; Phan Đình Phùng ; Tống Duy Tân ; Nguyễn Xuân Ôn ; Đinh Văn Chất ; Phạm Văn Nghị ; Dương Khuê ; Nguyễn Thượng Hiền ; Nguyễn Khuyến ; Chu Mạnh Trinh ; Đào Nguyên Phổ ; Ngô Đức Kế ; Huỳnh Thúc Kháng ; Vũ Phạm Hàm …
Kiến trúc cố đô Huế, Phan Thuận An, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2007. Trang 143-151
Source: https://suanha.org
Category : Sân Vườn