– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
– Con kính tay Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại
Tín chủ ( chúng ) con là : ……………………..
Ngụ tại : … … … … … … … … … ..
Hôm nay là ngày Rằm tháng Tám gặp tiết Trung Thu tín chủ chúng con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án .
Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin những ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật .
Chúng con kính mời những cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ ………………, cúi xin thương xót con cháu rất linh hiện về, chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật .
Tín chủ con lại kính mời những vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng. Xin những ngài độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng vinh quang thịnh vượng .
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì .
Nam mô a di Đà Phật ! ( 3 lần )
Nguồn gốc, phong tục và ý nghĩa của ngày Tết Trung Thu.
Tết Trung Thu
Theo phong tục người Việt tất cả chúng ta, Tết Trung Thu được tổ chức triển khai vào giữa mùa thu, tức là hôm rằm tháng tám ta. Trong dịp này người ta làm cỗ cúng gia tiên và bày bánh trái ra sân cúng mặt trăng .
Nhân dịp tết này, người lớn thì uống rượu, thưởng trăng, và hát trống quân ; trẻ nhỏ thì rước đèn, đi xem múa lân, ca hát những bài hát Trung Thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng những thứ trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới hình thức một mâm cỗ. Theo tục lệ, việc trẻ con chiêm ngưỡng và thưởng thức bánh kẹo trái cây trong đêm Trung Thu này được gọi là ” phá cỗ. ”
Nguồn Gốc Tết Trung Thu
Người Việt ta ăn Tết Trung Thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo phong tục của người Tàu. Có giai thoại là : Đường Minh Hoàng ( năm 712 – 756 ) có giấc mơ : vào đêm Rằm tháng 8 ( âm lịch ), khi trăng thanh, gió mát, vua ngự chơi ngoài thành mãi tới khuya. Thấy vậy, một ông già tóc bạc như tuyết, chống gậy đến bên nhà vua, cung kính thưa :
– Bệ hạ có muốn lên Cung trăng không ? – Có ! – Nhà vua nói .
Thế là vị Thượng tiên giáng thế, tung lên trời chiếc gậy và nó biến thành cái Cầu vồng bảy sắc. Tiên ông đưa nhà vua lên cầu và chẳng bao lâu, nhà vua đến được cung trăng. Khung cảnh trên cung trăng đẹp tuyệt vời-những nàng tiên kiều diễm, thướt tha, lướt qua, lướt lại, điệu đàng mê mải múa hát vang lên “ Khúc nghê thường ” tuyệt diệu, những cây đầy hoa rực rỡ tỏa nắng, những thảm cỏ xanh quyến rũ và thơm hương .
Trên cửa ra vào Cung Quảng có chữ mầu vàng sáng chói: “Cung Quảng Hàn”. Tất cả cảnh-tình này, gây cho nhà vua thích thú, thoải mái tâm hồn…
Được chiêm ngưỡng và thưởng thức cảnh lộng lẫy, huyền diệu, tuyệt tác … nơi Cung
Quảng, nhà vua khoái cảm, sung sướng vô cùng. Về hạ giới, vua muốn có cảnh ấy để thấy mỗi lần đi dạo mát, ngắm trăng, thưởng nguyệt .
Đường Minh Hoàng cho xây dựng ngay “Vọng Nguyệt đài”-Đài ngắm trăng. Khi trăng giữa tháng-đêm rằm, nhà vua lên Vọng Nguyệt đài thích thú ngắm trăng, có cảm giác là ngày đêm đẹp nhất, như ngày vui, ngày hội. Thế là, nhà vua liền đặt ra Tết Trung thu khi rằm tháng 8 đến. Từ đó, Tết Trung thu trở thành tục lễ hàng năm, khi trăng tròn, tỏa sáng, là có vũ-nhạc “Khúc nghê thường” vang trong Cung đường.
Theo lệ đó, từ đó đến nay, khi đón trăng-đón Tết Trung Thu, khắp nơi, mọi nhà, mọi người, nhất là những em nhỏ, được người lớn chuẩn bị sẵn sàng cho tết, hướng dẫn trẻ nhỏ ngắm trăng đi dạo, múa hát, đánh trống, rước đèn ông sao và những hình con vật, cùng nhiều đồ chơi thú vị. Người lớn không chỉ shopping, tổ chức triển khai, hướng dẫn cho con trẻ, mà cũng cùng những em đi dạo thoả chí và thú vị đón trăng, phá cỗ dưới trăng làm ra sự thăng hoa tình cảm, trí tuệ, trước vạn vật thiên nhiên, đời sống, khi mùa thu dịu dàng êm ả, thoáng mát, dễ chịu và thoải mái, tự do, hứng khởi đi tới tương lai của hội đồng và mỗi người .
Về phá cỗ Trông Trăng, ngoài vũ nhạc, thời nhà Đường, người ta còn làm bánh “ trông trăng ” – có hình mặt trăng để liên hoan khi Tết Trung thu về. Tục lệ đó, đã có ở nước ta từ lâu đến nay. Nên dịp Tết Trung thu, khắp nơi trong nước sản xuất nhiều loại đồ chơi, làm nhiều loại bánh, kẹo trung thu nhiều hình nhiều vẻ, nhiều sắc tố, nhiều mùi vị, bày bán khắp nơi để ship hàng Tết Trung thu .
Rước đèn đêm Trung thu, đã là tục lệ và nguồn vui của mọi người, nhất là mần nin thiếu nhi. Tục lệ này có từ Trung Quốc cổ xưa. Thời nhà Tống ( 960 – 1269 ), chuyền lan một lịch sử một thời là : có con con cá chép vàng, tu luyện thành tinh, thường hóa phép thành người, để trêu và lừa phụ nữ. Thấy thế, ông Bao Công bày cho mọi nhà mang đèn Cá Chép và nhiều mô hình con gia súc, gia cầm khác, treo trước cửa nhà, để cá quỷ không dám đến nhũng nhiễu, làm hại. Từ đó, trung thu đến, nhà nhà thả con cá chép xuống ao hồ và treo nhiều loại đèn, có đèn hình con cá chép và cho trẻ rước đèn Ông Sao đi dạo dưới vầng trăng toả sáng tươi đẹp .
Tết Trung thu và các tục lệ trong tết này, được du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam từ thời Lý. Nhưng phải đến Cách mạng tháng 8 thành công và nhất là từ năm 1947, khi Bác Hồ gửi thư Trung thu cho thiếu nhi cả nước, Tết Trung thu mới thực sự trở thành tết của tất cả trẻ em và được tổ chức vui chơi tưng bừng, rộn ràng, phấn khởi, vừa mang nhiều nguồn vui, vừa có ý nghĩa xã hội, đời sống… khi toàn xã hội, gia đình tận tình chăm sóc trẻ em. Sinh thời, hàng năm, Tết Trung thu về, Bác Hồ đều gửi thư cho thiếu nhi. Bác còn đến một số nơi vui chơi, tặng quà, đón trăng cùng các cháu. Đó là tấm lòng yêu dấu thấu tình của Bác, của tất cả người lớn với lớp măng non của dân tộc-người kế nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước./.
. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ .
Người Hoa và người Việt đều làm bánh trung thu để cúng, ăn, biếu thân bằng quyến thuộc, và mời khách. Điểm chung tiếp nối là người Hoa và người Việt đều tổ chức triển khai rước đèn trong đêm trung thu .
Ý Nghĩa Tết Trung Thu
Tết Trung Thu của người Việt có nhiều điểm đặc biệt quan trọng khác với Tết Trung Thu của người Nước Trung Hoa. Theo phong tục người Việt, cha mẹ bày cỗ cho những con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để những con rước đèn .
Cỗ mừng trung thu gồm bánh trung thu, kẹo, mía, bưởi, và những thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cháu hiểu được sự săn sóc quí mến của cha mẹ so với mình một cách đơn cử. Vì thế, tình yêu mái ấm gia đình lại càng khắng khít thêm .
Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn hữu, họ hàng, và những ân nhân khác. Thật là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau .
Người Hoa hay tổ chức triển khai múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt quan trọng tổ chức triển khai múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Quốc không có những phong tục này .
Thời xưa, người Việt còn tổ chức triển khai hát trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba “ thình, thùng, thình. ” Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để đi dạo vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát .
Tết Trung Thu mới đầu là tết của người lớn để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, ăn bánh, và uống trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu. Dần dần Tết Trung Thu trở thành Tết Trẻ Em hay Tết Nhi Đồng, nhưng người lớn cũng dự phần trong đó. Trẻ em được người lớn chú ý săn sóc như các hội đoàn người Việt hải ngoại đã và đang làm. Các em có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ anh chị bày cho và nhất là có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị quở mắng là “ăn kẹo hư răng.”
Trong dịp Tết Trung Thu, trẻ em có dịp được học bài hát “Rước Đèn Tháng Tám” một cách thích thú: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường. Lòng vui sướng với đèn trong tay. Em múa ca trong ánh trăng rằm. Đèn kéo quân với đèn cá trắm, đèn thiên nga với đèn bươm bướm. Em rước đèn này đến cung trăng. Đèn xanh lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng. Trông ánh đèn rực rỡ muôn màu.”
Tết Trung Thu là một phong tục rất có ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của săn sóc, của báo hiếu, của biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ, và của thương yêu. Cần cố gắng duy trì và phát triển ý nghĩa cao đẹp này.
Sưu tầm. / .
Source: https://suanha.org
Category : Phong thủy