Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày – giò nổi tiếng, lại có người cho rằng: Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ.
Bạn đang đọc: Phủ Dầy – Hội Nhất Tâm
Theo sử sách thì Phủ Dầy ngày này bắt nguồn từ tên một làng cổ là “ Kẻ giầy ”. Nơi đó, vào thời vua Tự Đức ( 1860 ) được chia là hai thôn : Vân Cát và Tiên Hương .
Như vậy, Vân Cát là nơi Mẫu được sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu Liễu Hạnh. Như vậy, Phủ Dầy chính là “ cái nôi ” Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ hai .Phủ Tiên Hương
Xem thêm: Tư Vấn Tâm Lý
Quần thể di tích lịch sử Tâm Linh phủ Dầy có đến 4 khu vực chính thờ Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương được coi là nơi thờ chính của Mẫu Liễu Hạnh, là nơi thờ Mẫu và bên chồng của Mẫu. Phủ Vân Cát là nơi thờ Mẫu và bên ngoại của Mẫu ( bên cha mẹ đẻ ). Phủ Bóng Nguyệt Du cung là nơi hiển linh của Mẫu sau khi hóa. Lăng Mẫu là nơi quàn của Mẫu sau khi về trời. Như vậy, hoàn toàn có thể coi Phủ Tiên Hương là nơi thờ chính của Mẫu Liễu Hạnh .
Phủ chính Tiên Hương được triều đình cho phép xây lập đền thờ 1642. Lúc đó phủ còn hết sức đơn sơ. Từ thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) đến năm 1841 được chuyển thành công trình gạch ngói. Năm Duy Tân thứ chín (1915) do tổng đốc Đoàn Triển cho xây dựng lớn như ngày nay. Phủ Tiên Hương tuy qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được dấu tích của phủ cổ trước kia.
Hiện nay, Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ 15 đạo sắc phong thần cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đạo sớm nhất ghi ngày 10 tháng chạp năm Vĩnh Khánh thứ 2 ( 1730 ) phong Thánh Mẫu là Mã Vàng Công Chúa thượng đẳng thần, muộn nhất là đạo sắc ghi ngày 25/7/1924, năm Khải Định cửu niên phong Đức Thánh đệ Tam – Ngọc nữ Quang cung Quế Anh. Trong Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ nhiều cổ vật ghi rõ đây là phủ chính thờ Mẫu tại nơi Mẫu đầu thai. Đó là chiếc ấn đồng cổ đúc từ hàng trăm năm trước, trên ấn có hai chữ Hán ở sống lưng ấn : Phủ chính, nhiều cổ vật sứ cổ được khắc chữ nhấn mạnh vấn đề đây là đồ tế tự của phủ chính …
Phủ Vân Cát
Đền được thiết kế xây dựng từ thời vua Lê Cảnh Thịnh ( 1663 – 1671 ). Khoảng đời Cảnh Thịnh ( 1794 – 1800 ) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã lan rộng ra ra. Đến năm Kỷ Mão ( 1879 ) đời Tự Đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại. Năm Thành Thái thứ 10 ( 1898 ) đền phủ bị hư hại nhiều vì mưa gió nên những quan huyện … cùng những bậc thân hào đứng ra sửa. Đến năm Thành Thái thứ 12 ( 1900 ) thì hoàn thành xong .
Source: https://suanha.org
Category : Tư Vấn