Nam Mô A Di Đà Phật – Câu cửa miệng người đi lễ
Từ thời xưa, người Việt nói chung và người theo đạo Phật nói riêng thường xuất hành ngày đầu Xuân bằng việc đi lễ chùa, cầu sức khỏe thể chất, bình an cho mái ấm gia đình trong một năm mới. Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm không đơn thuần chỉ là để ước nguyện, mà là khoảnh khắc để con người hòa mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao khó khăn vất vả trong cuộc mưu sinh. Lễ xong, người đi lễ thường xin nhà chùa một thứ gì đó về làm lộc đầu năm như là gạo, muối, diêm …
Tết cũng là lúc người dân chú trọng vô cùng chuyện cúng lễ, ngưỡng vọng trời đất, thần Phật, tổ tiên, cầu cho một năm mới nhiều may mắn.
Bạn đang đọc: Đầu Xuân, bàn về lời khấn ‘Nam Mô A Di Đà Phật’?
Theo tập tục văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Nước Ta đều có những Đình, Đền, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu .
Các vị Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là những bậc tiền nhân đã có công với hội đồng làng xã, dân tộc bản địa trong lịch sử dân tộc đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Nước Ta .
Ngày nay, theo nếp xưa người Nước Ta ở khắp mọi miền quốc gia hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở những Đình, Đền, Miếu, Phủ vào những dịp nghỉ lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn những bậc Tôn thần đã có công với quốc gia .
Các chùa đều có nơi thờ Thánh Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi hoạt động và sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người kỳ vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, hoàn toàn có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng mái ấm gia đình, hội đồng được thịnh vượng, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi …
Trong thực tế, hầu hết người dân Việt đến đền, đình, chùa, miếu, phủ đều bắt đầu bài khấn bằng một câu là “Nam mô A Di Đà Phật”. Kể cả những người “sành” đi đình, miếu, phủ cũng khấn vậy. Thậm chí khi khấn tổ tiên ở nhà, khấn lễ vào các dịp tuần tiết, dù không theo đạo Phật, người dân cũng khấn ‘Nam Mô A Di Đà Phật’. Tuy nhiên câu khấn này thực chất chỉ dành để khấn ở chùa.
‘ Nam Mô A Di Đà Phật ‘ ( được gọi là Lục tự Hồng danh – Danh lớn 6 chữ ) có nghĩa là gì ? Theo những tài liệu Phật giáo, Nam Mô ở đây có 6 nghĩa : kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng .
A : Có nghĩa là Vô, Không
Di Đà : Nghĩa là lượng
Phật : Người Giác ngộ
Do đó, Nam Mô A Di Đà Phật có nghĩa là : Kính lễ đấng Giác ngộ vô lượng hoặc cũng có nghĩa là : Con quay về phụ thuộc vào đấng Giác ngộ vô lượng .
Kỳ thực Nam Mô A Di Đà Phật còn bộc lộ sự tôn kính so với Phật, Bồ Tát, như trong câu “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát ” .
Phật A Di Đà ( tiếng Phạn là Amitābha ) là vị Phật có thương hiệu là Vô Lượng Phật, Vô Lượng Quang Phật, Vô Lượng Thọ Phật, là một trong những vị Phật quan trọng nhất trong Phật giáo. Phật A Di Đà là giáo chủ của Thế giới Tây phương Cực Lạc, là quốc tế mà Ngài kiến lập. Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ của Thế giới Ta Bà, tức là quốc tế có tất cả chúng ta đang sinh sống .
Phật Giáo là một tư tưởng triết học lớn, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người khởi xướng. Chính vì thế hình tượng Đức Phật là đại diện thay mặt Phật giáo chính là đại diện thay mặt cho những tư tưởng triết học và giáo lý mà bản thân Phật giáo muốn đem đến cho người dân. Đó là những khuyên răn về việc hướng thiện, về luật nhân quả tức là tự mình làm việc thiện sẽ nhận lại cho mình những điều tốt đẹp .
Phật giáo được gia nhập vào Nước Ta từ rất sớm, khoảng chừng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên theo đường thủy. Những vết tích tiên phong được được ghi nhận với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Đạo Phật có nhiều tông phái, trong đó những tông phái có ảnh hưởng tác động lớn ở Nước Ta gồm : Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Nam tông .Tuy nhiên, chỉ những Phật tử theo Tịnh độ tông tụng Nam Mô A Di Đà Phật (Kính lễ đấng Giác ngộ vô lượng). Họ tin rằng, trong Thập Lục Quán Kinh Phật dạy: nếu chúng sinh nào niệm một lần danh hiệu của Phật A Di Đà sẽ tiêu được 8 muôn ức kiếp tội nặng. Các phái Phật giáo khác như Thiền tông, Phật giáo nguyên thủy không tụng niệm câu này.
Dù vậy, sáu chữ Hồng Danh xưng niệm Phật hiệu đã trở thành câu niệm Phật quen thuộc và thông dụng rất thoáng rộng trong giới Phật tử xuất gia cũng như cư sĩ tại gia .
Mức độ thông dụng trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày chứng tỏ lòng tín niệm của Phật tử biểu lộ ở câu chào khi gặp nhau gồm có bốn chữ A-di-đà Phật !Từ đó, Nam Mô A Di Đà Phật được lưu truyền rộng rãi, có sức ảnh hưởng sâu rộng thành câu mở đầu và kết thúc các bài khấn của những người đi lễ, các tín chủ dù ở nhà, ở chùa, hay đình, đền, miếu, phủ…
Vì sao người dân lễ thần, thánh, gia tiên cũng khấn Nam Mô A Di Đà Phật?
Hiện nay, có nhiều sách giới thiệu các bài khấn nhưng tựu trung hai cuốn sách được sử dụng nhiều nhất là cuốn Văn khấn cổ truyền Việt Nam (NXB Văn hóa Thông tin xuất bản) do Hòa thượng Thích Thanh Duệ và Nguyễn Bích Hằng thẩm định, chỉnh lý, tuyển chọn. Trong sách này, các bài khấn đều có bắt đầu và kết thúc bằng Nam Mô A Di Đà Phật.
Quyển sách thứ hai là Tập văn cúng gia tiên ( NXB Văn hóa Dân tộc ấn hành ), trong quyển sách này không có sáu chữ Hồng Danh xưng niệm Phật hiệu .
Người Nước Ta theo Phật giáo từ lâu nên văn hóa truyền thống Phật giáo thấm đẫm hơn cả. Vì thế, khi khấn, người ta thường khởi đầu bằng câu : Nam Mô A Di Đà Phật 3 lần và vái lạy hay “ Lạy chín phương trời, lạy mười phương Phật ”, sau đó là những vị thần linh sông núi, thành hoàng bản cảnh … rồi đến anh linh tiên hiền tiên liệt, tổ tiên những đời. Kết thúc lại bằng Nam Mô A Di Đà Phật 3 lần kèm vái lạy .
Bàn thờ Tam tòa thánh Mẫu trong chùa Một số nhà điều tra và nghiên cứu cho rằng việc lễ thần, thánh, gia tiên cũng khấn Nam Mô A Di Đà Phật là không đúng .
Lý do câu Nam Mô A Di Đà Phật thành câu cửa miệng là vì Phật giáo ở Nước Ta bị hiểu sai. Do nhiều tác động ảnh hưởng của đời sống vật chất đặc biệt quan trọng là sự kém hiểu biết một bộ phận người dân do chỉ đến với Phật giáo theo tư cách những người không nghiên cứu và điều tra hay tu hành, cộng thêm tâm lí đám đông mới dẫn sự xô lệch như vậy về ý niệm về Phật giáo .Chính vì hiểu sai nên dẫn đến những hành động chưa đúng thậm chí là sai lệch gây ra nhiều sự biến tướng, sai lệch trong các hoạt động văn hóa tâm linh.
Việc ‘ dân dã hóa ‘ Đức Phật được bộc lộ rất rõ. Ví dụ như việc thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo nhưng khi mở màn khấn nhiều người lại khấn câu tiên phong là Nam Mô A Di Đà Phật .
Tín ngưỡng thờ Mẫu không phải là Phật giáo, nhưng khi nhiều người đến phủ Tây Hồ, phủ Dầy câu tiên phong khấn cũng lại là Nam Mô A Di Đà Phật .
Đền, phủ, đình, miếu … không thờ Phật do đó câu nói này trọn vẹn không tương thích .
Đền, phủ, đình, miếu … là những nơi thờ thần linh, thờ những người có công nên khi đứng trước ban thờ, người khấn thứ nhất hãy tỏ lòng tôn kính, sau đó mới khấn những mong ước, tâm nguyện trong sáng .1.Chùa: Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa còn là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư.
2.Đình: Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ( ông tổ của nghề ). Dưới những triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới .
3.Đền: Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.
Các đền nổi tiếng hoàn toàn có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần … thờ những anh hùng dân tộc bản địa .
Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh … thờ những vị thánh theo truyền thuyết thần thoại dân gian .4. Miếu: Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.
Ví dụ : miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ .
Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần hoàn toàn có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân số. Ở 1 số ít nơi, trong những ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa ( nhân thần ), ngày hiện hóa ( thiên thần ) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu ( cách gọi của người miền Nam ) .5.Phủ: Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật).
Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ những thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII .
Source: https://suanha.org
Category : Tư Vấn