Kinh Phật dạy rằng, những người ở kiếp trước sống tốt chắc chắn ở kiếp này sẽ có một gia đình ấm cúng đề huề con cháu. Ngược lại, những ai ác đức, thì ở kiếp này sẽ hiếm muộn, không có con cho tới suốt đời. Tuy nhiên, đức Phật luôn mở rộng vòng tay cho những ai biết thành tâm, hướng Phật…
Nườm nượp người tới “cầu con”
Thời xưa, vào tháng Giêng, tháng Hai, các vợ chồng hiếm muộn thường dắt nhau vào lễ chùa Hương Tích (ngày nay gọi là chùa Hương, ở huyện Mỹ Đức, Hà Nội) cầu tự. Trong chùa có một hang đá, thạch nhũ mọc lổn nhổn hai bên, tục gọi là núi Cô, núi Cậu.
Bạn đang đọc: Thực hư chuyện hiếm muộn đến chùa cầu được con
Những người muốn cầu tự đem hương oản, quả lễ vào chùa, đem quà bánh đến chỗ hang thạch nhũ đó, coi hòn nào thích mắt thì xoa tay vào đầu mà khấn : “ Cậu về ở với vợ chồng nhà tôi nhá ”. Ai nhiều con trai rồi mà muốn cầu con gái thì sang dãy núi Cô, cũng nói y hệt như vậy .
Khấn xong lúc trở ra về, ăn thì thêm bát thêm đũa, đi đò thì trả thêm một suất cho người lái đò, làm như đã có một người đi theo vậy. Nếu ở nhà mà sau vợ có mang sinh con thì mỗi năm phải đem con về chùa tạ ơn Phật .
Ở Phú Thọ có đền Lăng Sương là ngôi đền được kiến thiết xây dựng từ thời Thục An Dương Vương là nơi thờ Tản Viên sơn thánh ( một trong tứ bất tử của nước ta ) và thân mẫu của ngài là mẫu Đinh Thị Đen nên đền này còn mang tên khác là đền Thánh mẫu. Tương truyền rằng bà Đinh Thị Đen là người phụ nữ Mường ở xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn .
Trong một lần đi thao tác đồng bà ướm chân vào hòn đá rồi về thụ thai nên chồng nghĩ bà ngoại tình nên bỏ về miền biển. Bị đàm tiếu bà bỏ đi đến Động Lăng Sương thì hạ sinh và nuôi dạy Tản Viên. Vì ngôi đền này thờ thánh mẫu nên người ta tin rằng đây là ngôi đền cầu tự rất thiêng. Thường niên, nhất là những dịp lễ tết có rất nhiều cặp đôi bạn trẻ hiếm muộn đến cầu tự ở đây và họ tin rằng sẽ được như ý nguyện .
Tiếp đó, khá nức tiếng ở ngay TT TP.Hồ Chí Minh là chùa Ngọc Hoàng tọa lạc tại số 73 Mai Thị Lựu. Ở phía bên trái chánh điện chùa Ngọc Hoàng Hồ Chí Minh có một phòng nhỏ treo biển “ Kim Hoa thánh mẫu ” và 12 bà mụ. Có một cụ già hoặc một bà lão thay phiên nhau trực, chuyển lời khấn nguyện lên bề trên. Sở dĩ có sự rất linh ứng nghiệm là vì Kim Hoa thánh mẫu là vị thánh coi về việc sinh đẻ trên chốn nhân gian .
Phía bên dưới bà là 12 bà mụ, mỗi bên 6 người tư thế khác nhau. Mỗi bà lo một việc, người nắn tay, kẻ nắn chân, người nắn đầu, kẻ nắn mắt, người dạy trẻ tập bước, tập nói … Những cặp vợ chồng đến đây thường thả một cặp rùa ghi tên tuổi của mình. Nghe đâu nếu là cặp rùa mang bầu thì càng ứng nghiệm. Nhìn bể rùa đông đúc và những tiệm hoặc những người bưng thúng bán rùa la liệt ở ngoài cổng đủ biết số lượng người cầu con đến chùa đông như thế nào .Kỳ lạ miếng đá mang hình sản phụ lâm bồn
Đền Sinh – Đền Hóa ( xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Thành Phố Hải Dương ) không chỉ nổi tiếng là di tích lịch sử văn hóa truyền thống lịch sử vẻ vang với tín ngưỡng thờ mẫu. Nơi đây, còn là địa chỉ cầu tự dành cho những cặp vợ chồng mong ước sinh con .
Di tích thờ Đức Thánh Mẫu Thạch Bàn và Đức Thánh Phi Bồng Hiệu Thiên được nhân dân nơi đây thờ phụng từ hơn nghìn năm qua, trong quần thể Di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc. Đặc biệt, ở đây có một phiến đá tự nhiên mang tư thế của một người mẹ lúc lâm bồn và phiến đá độc lạ này chỉ có một không hai ở Nước Ta. Phiến đá mang hình sản phụ đang trong tư thế lâm bồn đặt sang trọng và quý phái trong hậu cung được người dân cung kính gọi là Đức Thánh mẫu Thạch Bàn .
Đức Thánh mẫu Thạch Bàn là một phiến đá nguyên khối cao chừng hơn 3 m, rộng khoảng chừng 5 m, có hình dáng như người phụ nữ đang nằm ngửa trong lúc lâm bồn. Trên đầu phiến đá có hình tròn trụ tượng trưng cho đầu. Hai khối đá tròn nhỏ phía dưới được xem như thể bầu ngực .
Tiếp xuống là hai khối đá lớn, dài, có hình dáng giống hai chân đang co gập gối. Giữa hai phần đùi có hai khối đá nhỏ tượng trưng “ cửa bát nhã ”. Một khối đá nhỏ chui ra từ “ cửa bát nhã ” tượng trưng cho bào thai đang chào đời. Hai khối đá mé ngoài là bàn chân .Theo thần tích của đền: Vào giờ Dần ngày 5/8/542, khi mặt trời gác núi, trẻ chăn trâu hội tụ dưới chân núi Ngũ Nhạc (thuộc chân đền Sinh bây giờ) bỗng nghe thấy tiếng trẻ con khóc trên sườn núi. Chạy lại gần, đám trẻ trâu không thấy ai, chỉ thấy một đứa trẻ dáng vẻ khôi ngô ngồi ở chỗ hòn đá to bằng hai cái chiếu nứt đôi, vết nứt rộng chừng hơn một thước, em bé ngồi ở chính giữa chỗ vết nứt đó và khóc vang như tiếng chuông.
Thấy vấn đề lạ kỳ, một đám trẻ trâu thuộc làng bên chạy về báo với người lớn. Những người già trong làng hấp tấp vội vàng sửa soạn khăn áo, lọng, cờ đi rước đứa trẻ về. Trong khi đó, đám trẻ trâu làng An Mô nhanh trí hơn đã lấy tay làm kiệu, lấy mũ làm lọng, lấy khăn làm cờ bế bồng đón hài nhi về làng. Đi được vài trăm mét, bỗng dưng trời nổi mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm, em bé liền bay thẳng lên trời. Một lát sau, từ trên trời cao có tiếng nói vọng xuống : “ Ta là thần Phi Bồng đây ” .
Rất đông người tìm đến cầu con ở gian thờ Kim Hoa thánh mẫu bên trong chùa Ngọc Hoàng. ( Ảnh minh họa ) . Người dân địa phương lấy làm kinh dị bèn bảo nhau lập miếu thờ. Nơi thứ nhất là nơi Đức Thánh mẫu Thạch Bàn hạ sinh con được gọi là đền Sinh. Và nơi Đức thánh Phi Bồng hóa về trời được gọi là đền Hóa. Hai ngôi đền cách nhau chừng 800m, trong một không gian văn hóa tâm linh được nhiều cặp gia đình hiếm muộn tìm đến xin con.
Anh Hoàng Văn Dũng, Phó trưởng Ban Quản lý Di tích thị xã Chí Linh cho biết : Từ lâu, đền Sinh – đền Hóa lôi cuốn đông du khách về cầu tài, lộc, công danh sự nghiệp, sức khỏe thể chất và đặc biệt quan trọng, nhiều hành khách cầu xin con. Theo anh Dũng, người dân và hành khách thập phương đến đền cầu tự ở đền Sinh là do di tích lịch sử gắn với tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng phồn thực, với ý nghĩa mong cầu sinh sôi, xanh tươi .
Vì ở đền Sinh – đền Hóa gắn với truyền thuyết thần thoại Đức Thánh Phi Bồng hiển linh trong hình hài một Thiên đồng, sinh ra từ chỗ lõm của khối Thạch linh có dáng hình của người mẹ trong tư thế sinh nở. Từ khi Thánh sinh đến khi hóa chỉ diễn ra trong một canh giờ. Ngoài ra, Đức Thanh Phi Bồng còn nhiều lần hiển linh giúp vua nhà Tiền Lý và phù hộ cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đánh đuổi giặc xâm lược .
Thường những người hiếm muộn xin được con đều niềm hạnh phúc vô bờ bến. Mỗi năm, vào đúng ngày sinh của con mình, họ đều đến đây để làm lễ tạ. Dù xa xôi mấy, trong Nam ngoài Bắc, kể cả Việt kiều cũng đều đặn quay lại tạ lễ. Người có điều kiện kèm theo hơn thì may áo và tham gia vào lễ thay áo cho 12 bà mụ được tổ chức triển khai hàng năm …Linh nghiệm hay tâm lý được giải tỏa?
Người xưa có nhiều cách để cầu tự, người thì uống thuốc cho bổ khí huyết, người thì đổ tại đất tuyệt đinh nên đến nhờ thầy địa lý tư vấn, người thì đi lễ bái, đến đình chùa cầu Phật, Thánh độ cho có con. Trong cuốn “ Việt Nam phong tục ” của Phan Kế Bính, tục này từ thời thượng cổ đã có, như Vua Đế Cốc cầu tự ở đền Cao Môi mà sinh ra ông Hậu Tắc. Tục lệ này được cho là xử lý yếu tố về niềm tin, có công dụng như một liệu pháp tâm ý với những mái ấm gia đình hiếm muộn .
Xét về tính khoa học của cầu tự, như đã nói ở trên, chưa hề có sử sách nào ghi lại. Thời xưa nhiều người cũng cho rằng sau khi lên chùa cầu tự, bụng dạ yên tâm, ý thức tự do, nhờ vậy mà có thai sinh con. Nhiều người cũng hiểu nếu không có con hoặc sinh con mà khó nuôi thì là do người vợ hoặc người chồng hoặc cả hai có bệnh tật gì, hoặc đẻ con ra con sức khỏe thể chất yếu ớt, suy nhược nên khó nuôi là phải .
Còn nếu người chỉ sinh con gái mà không sinh con trai, thì bởi một nguyên do đặc biệt quan trọng nào đó chưa biết, chứ không có thần thánh nào chủ trương về việc sinh con đẻ cái. Tất nhiên cũng có nhiều trường hợp sau khi cầu tự, có con thành công xuất sắc. Nhiều người đã ngoài 40 tuổi sau khi lên chùa khấn lễ lại có con, mà có khi người con ấy sau này còn ăn nên làm ra. Vì thế trong dân gian vẫn tin rằng cầu tự nhiều khi linh nghiệm .Có thể nói, tục cầu tự cũng giống như câu nói “có bệnh thì vái tứ phương” của người Việt. Tục lệ này ít được nhắc đến trong sách vở, nhưng là tục lệ được hình thành từ khao khát có con của những cặp vợ chồng hiếm muộn. Và khao khát đó thì dù ở thời đại nào, cũng là chính đáng cả.
Bác sĩ Nguyễn Bá Hưng, thành viên Hội Nam học Hoa Kì cho biết : “ Có nhiều nguyên do khiến cho những cặp vợ chồng hiếm muộn và áp lực đè nén tâm ý là một trong những nguyên do gây ra bệnh đó. Trước khi đi chùa, đền, họ đã trải qua một quy trình chữa bệnh bằng đông y, tây y và sau một thời hạn khi chưa có tiến triển thì họ mở màn chữa bệnh bằng tâm linh .
Vì theo nhiều người, con cháu là của trời cho nên vì thế họ thường tìm đến nơi cửa Phật cho tâm ý tự do, thanh thản. Vì vậy, việc có thai tự nhiên hoàn toàn có thể là do trùng hợp ngẫu nhiên với sự tự phục sinh sau một thời hạn điều trị thì thuốc có tính năng. Chính cho nên vì thế, dân cư không nên tin vào thần thánh quá để rồi bỏ lỡ những tân tiến y học văn minh ” …
Source: https://suanha.org
Category : Tư Vấn