Nguồn gốc của truyền hình kỹ thuật số đã được liên kết rất chặt chẽ với sự sẵn có của các máy tính hiệu suất cao, rẻ tiền. Mãi đến những năm 1990, television receiver kỹ thuật số mới trở nên khả dụng [ four ]. Truyền hình kỹ thuật số trước đây không khả thi trên thực tế do yêu cầu băng thông cao không chính thức của television kỹ thuật số không nén, chúng yêu cầu tốc độ moment khoảng two hundred megabit / sulfur ( twenty-five megabyte / mho ) cho tín hiệu truyền hình độ nét tiêu chuẩn ( SDTV ), và hơn one gigabit / sulfur cho truyền hình độ nét cao ( high-definition television ). [ five ] Truyền hình kỹ thuật số đã trở nên khả thi trên thực tế vào đầu những năm 1990 serve sự phát triển công nghệ lớn : nén video recording biến đổi cosine ( DCT ) rời rạc. Mã hóa DCT là một kỹ thuật nén lần đầu tiên được đề xuất để nén hình ảnh bởi Nasir Ahmed vào năm 1972 [ six ], và sau đó được điều chỉnh thành thuật toán mã hóa video DCT bù chuyển động, cho các tiêu chuẩn mã hóa video như định dạng H.26x từ năm 1988 trở đi và các định dạng mpeg từ năm 1991 trở đi [ seven ] [ eight ]. Nén video recording DCT bù chuyển động đã giảm đáng kể lượng băng thông cần thiết cho tín hiệu television kỹ thuật số. [ five ] [ nine ] Mã hóa DCT đã giảm các yêu cầu băng thông của tín hiệu truyền hình kỹ thuật số xuống khoảng thirty-four Mpps bite cho SDTV và khoảng seventy – one hundred forty Mbit/s cho high-definition television trong chi duy trì truyền dẫn chất lượng gần studio apartment, biến truyền hình kỹ thuật số thành hiện thực trong những năm 1990 .. [ five ]
Một dịch vụ truyền hình kỹ thuật số đã được đề xuất vào năm 1986 bởi japan cable and telephone ( NTT ) và Bộ Bưu chính Viễn thông ( MPT ) tại Nhật Bản, nơi đang có kế hoạch phát triển dịch vụ về “ Hệ thống mạng tích hợp ”. Tuy nhiên, thực tế không thể thực hiện một dịch vụ truyền hình kỹ thuật số như vậy cho đến chi việc áp dụng công nghệ nén video biến đổi cosine ( DCT ) rời rạc vào đầu những năm 1990. [ nine ]
Vào giữa những năm 1980, chi các công ty điện tử tiêu dùng Nhật Bản phát triển trước công nghệ high-definition television và định dạng analogue muse được NHK của đài truyền hình công cộng Nhật Bản đề xuất như một tiêu chuẩn trên toàn thế giới, những tiến bộ của Nhật Bản được coi là sự đe dọa làm lutetium mờ các thiết bị điện tử của các công ty Hoa Kỳ. Cho đến tháng six năm 1990, tiêu chuẩn chew over của Nhật Bản dựa trên một hệ thống tín hiệu analogue, đã trở thành người đi đầu trong số hơn twenty-three khái niệm kỹ thuật khác nhau đang được xem xét. Từ năm 1988 đến 1991, một số tổ chức châu Âu đã làm việc về các tiêu chuẩn mã hóa video kỹ thuật số dựa trên DCT cho cả SDTV và high-definition television. Dự án european union 256 của CMTT và ETSI, cùng với nghiên cứu của đài truyền hình RAI của Ý, đã phát triển một codec video DCT phát SDTV ở tốc độ piece thirty-four megabit /s và high-definition television chất lượng gần studio apartment ở khoảng seventy bit140 megabit /s bit-rate. RAI đã chứng minh điều này với một FIFA worldly concern cup 1990 phát sóng vào tháng three năm 1990 [ five ] [ ten ]. Một công ty của Mỹ, general instrument, cũng đã chứng minh tính khả thi của tín hiệu truyền hình kỹ thuật số vào năm 1990. Điều này dẫn đến việc federal communications commission bị thuyết phục trì hoãn quyết định của mình đối với tiêu chuẩn ATV cho đến chi tiêu chuẩn kỹ thuật số có thể được phát triển. Vào tháng three năm 1990, chi chắc chắn rằng tiêu chuẩn kỹ thuật số rất khả thi, federal communications commission đã đưa radium một số quyết định quan trọng. Đầu tiên, Ủy banish tuyên bố rằng tiêu chuẩn television mới có nhiều sự phát triển hơn sol với tín hiệu analogue, nhưng để có thể cung cấp tín hiệu high-definition television chính hãng đòi hỏi độ phân giải ít nhất gấp đôi indeed với hình ảnh truyền hình hiện có. Sau đó, để đảm bảo rằng những người xem không muốn mua một bộ truyền hình kỹ thuật số mới có thể tiếp tục nhận được các chương trình phát sóng truyền hình thông thường, họ đã radium lệnh rằng tiêu chuẩn ATV mới phải có khả năng “ mô phỏng ” trên các kênh khác nhau. Tiêu chuẩn ATV mới cũng cho phép tín hiệu DTV mới dựa trên các nguyên tắc thiết kế hoàn toàn mới. Mặc dù không tương thích với tiêu chuẩn NTSC hiện có, tiêu chuẩn DTV mới sẽ có thể kết hợp nhiều cải tiến. [ eleven ] Tiêu chuẩn cuối cùng được chấp nhận bởi federal communications commission không yêu cầu một tiêu chuẩn duy nhất cho các định dạng quét, tỷ lệ khung hình hoặc đường phân giải. Kết quả này là perform sự tranh chấp giữa ngành công nghiệp điện tử tiêu dùng ( có sự tham armed islamic group của một số đài truyền hình ) và ngành công nghiệp máy tính ( có sự tham armed islamic group của ngành công nghiệp phim ảnh và một số nhóm lợi ích công cộng ) về hai quá trình quét xen kẽ hay tiến bộ. Quét xen kẽ, được sử dụng trong các television trên toàn thế giới, quét các dòng được đánh số chẵn trước, sau đó là các số lẻ. Quét liên tục, là định dạng được sử dụng trong máy tính, quét các dòng theo trình tự, từ trên xuống dưới. Ngành công nghiệp máy tính lập luận rằng quét tiến bộ là vượt trội vì nó không “ nhấp nháy ” theo cách quét xen kẽ. Họ cũng lập luận rằng việc quét lũy tiến cho phép kết nối internet dễ dàng hơn và được chuyển đổi rẻ hơn sing các định dạng xen kẽ hơn là ngược lại. Ngành công nghiệp phim ảnh cũng ủng hộ quan điểm về quét lũy tiến vì nó cung cấp một phương tiện hiệu quả hơn để chuyển đổi chương trình quay phim sing định dạng kỹ thuật số. Về phần mình, ngành công nghiệp điện tử tiêu dùng và các đài truyền hình lập luận rằng quét xen kẽ là công nghệ duy nhất có thể truyền hình ảnh chất lượng cao nhất sau đó ( và hiện tại ) tức là, 1.080 dòng trên mỗi hình ảnh và 1.920 pixel mỗi dòng. Các đài truyền hình cũng thích quét xen kẽ vì kho lưu trữ lập trình xen kẽ rộng lớn của họ không dễ tương thích với định dạng lũy tiến. [ twelve ]
Chính thức ra mắt [sửa |sửa mã nguồn ]
DirecTV tại Hoa Kỳ đã radium mắt nền tảng vệ tinh kỹ thuật số thương mại đầu tiên vào tháng five năm 1994, sử dụng tiêu chuẩn Hệ thống vệ tinh kỹ thuật số ( darmstadtium ). [ thirteen ] [ fourteen ] Phát sóng cáp kỹ thuật số đã được thử nghiệm và radium mắt tại Hoa Kỳ vào năm 1996 bởi TCI và time warner. [ fifteen ] [ sixteen ] Nền tảng mặt đất kỹ thuật số đầu tiên được radium mắt vào tháng eleven năm 1998 với tên ONdigital tại Vương quốc Anh, sử dụng tiêu chuẩn DVB-T. [ seventeen ]
Lịch sử truyền hình kỹ thuật số tại Việt Nam [sửa |sửa mã nguồn ]
Ứng dụng vào ngành truyền thông tiếp thị [sửa |sửa mã nguồn ]
Với tốc độ tăng trưởng chóng mặt của truyền số ( gần twenty-five % trong five năm qua ), đã tạo nên nhu cầu đáng kể cho nội dung số. Ngoài nội droppings người dùng tự tạo nên hay những bộ phim thì nguồn lớn nhất của nội dung là nằm ở truyền hình trên các phương tiện truyền thông số. Truyền hình hiện nay là nội dung television, có thể được xem trên truyền hình truyền thống, điện thoại di động, máy tính xách tay, máy tính bảng. Và thay vì lỗi thời truyền hình vẫn đóng góp vào ngành truyền thông tiếp thị thông qua những cách mới, số hóa và hiện đại hơn. Dưới đây là một số nhận định về xu hướng của truyền hình số trong tương lai cũng như sự chuyển dịch trong cơ cấu nội droppings trên truyền hình kỹ thuật số .
Video trực tuyến mạnh lên nhưng tivi vẫn là thống soái [18] [sửa |sửa mã nguồn ]
Các năm qua, quảng cáo trên nền tảng video recording trực tuyến mạnh lên rõ rệt chưa dứt điểm được tivi truyền thống mà nó chỉ đang gặm nhấm thị phần của tivi thôi. Tại Mỹ mức suy giảm của tivi truyền thống và mức lấn thị phần của video trực tuyến là 1,5-2 % mỗi năm, nhưng ở châu Á tivi đang đi ngang với mức tiếp cận eighty-three % người dùng. Các thống kê và dự báo cho thấy doanh thu truyền hình giảm rõ rệt, sung vẫn còn khá lớn trong cơ cấu chi tiêu, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp các nước. Phân bổ ngân sách cho quảng bá trên tivi trước kia có thể lên đến eighty % tổng chi tiêu thì nay vẫn còn mức 60-70 %. Chính tivi thông minh đã làm cho tivi truyền thống hồi sức lại một chút. Còn video recording trên Facebook chưa khai thác thương mại hiệu quả được và vẫn còn sơ khai, còn khá lúng túng trong việc tạo ảnh hưởng và khai thác thương mại .
Truyền hình đang trở thành trải nghiệm của cá nhân [sửa |sửa mã nguồn ]
Chúng tantalum không còn thấy các armed islamic group đình quây quần bên chiếc tivi để cùng xem một chương trình truyền hình. Truyền hình hiện nay là những nội dung video, có thể được xem trên truyền hình truyền thống điện thoại di động, máy tính xách tay, máy tính bảng. Địa điểm và thời gian để để xem truyền hình là không hạn chế. Ranh giới giữa nội dung trên truyền hình và nội dung số dần bị xóa mờ bởi mọi người có thể xem miễn phí các chương trình truyền hình trên các thiết bị di động của họ hoặc ngược lại có thể xem các nội dung số ngay trên chiếc tivi truyền thống. Kết quả là khán giả có thể tự make lựa chọn những gì họ muốn xem chứ không phải bị giới hạn thời gian phát sóng. Hơn nữa với sự phát triển của internet ngày nay, mỗi khán giả đều có rất nhiều sự lựa chọn trên hàng triệu nội dung video vô cùng phong phú. ( Nguồn : brand Việt Nam )
Người tiêu dùng Việt Nam ngày càng có xu hướng xem truyền hình và thao tác trên các thiết bị khác cùng một lúc ngày cả ở thời gian chính ( buổi tối muộn ) chi truyền hình đạt tỉ suất cao nhất – đây được xem là xu hướng màn hình xếp chồng mới. Đa số người xem sử dụng các thiết bị khác của họ như : personal computer, máy tính bảng, điện thoại di động thông minh trong chi xem truyền hình để có thêm thông can về chương trình đang chiếu, giao tiếp với những người khác, hay tìm kiếm những sản phẩm dịch vụ được quảng cáo. Theo thống kê của tennessee affiliated life, vào năm 2015, hoạt động phổ biến nhất của xu hướng màn hình chồng là mạng xã hội. ( Nguồn : brand Việt Nam )sol sánh analogue với kỹ thuật số [sửa |sửa mã nguồn ]
Xem thêm : Truyền hình tương tự
DTV có một số lợi thế therefore với television receiver analogue, đáng kể nhất là các kênh kỹ thuật số chiếm ít băng thông hơn và nhu cầu băng thông liên tục thay đổi, với chất lượng hình ảnh giảm tương ứng tùy thuộc vào mức độ nén cũng như độ phân giải của hình ảnh truyền đi. Điều này có nghĩa là các đài truyền hình kỹ thuật số có thể cung cấp nhiều kênh kỹ thuật số hơn trong cùng một không gian, cung cấp dịch vụ truyền hình độ nét cao hoặc cung cấp các dịch vụ phi truyền hình khác như đa phương tiện hoặc tương tác. DTV cũng cho phép các dịch vụ đặc biệt như ghép kênh ( nhiều chương trình trên cùng một kênh ), hướng dẫn chương trình điện tử ( EPG ) và ngôn ngữ bổ spill the beans ( âm thanh hoặc phụ đề ). Việc bán các dịch vụ phi truyền hình có thể mang lại một nguồn doanh thu bổ whistle. [ nineteen ] Tín hiệu số và tín hiệu analogue phản ứng với nhiễu khác nhau. Ví dụ, các vấn đề phổ biến với truyền hình analogue bao gồm bóng mờ hình ảnh, nhiễu từ tín hiệu yếu và nhiều vấn đề tiềm ẩn khác làm giảm chất lượng hình ảnh và âm thanh, mặc dù tín hiệu chương trình vẫn có thể xem được. Với truyền hình kỹ thuật số, âm thanh và video phải được đồng bộ hóa kỹ thuật số, perform đó việc thu tín hiệu kỹ thuật số phải gần như hoàn thiện nếu không cả âm thanh và video recording đều không thể sử dụng được. Nói ngắn gọn về sự thất bại hoàn toàn này, hiện tượng “ vỡ hình ” sẽ xảy ra chi tín hiệu kỹ thuật số bị can nhiễu. television analogue được bắt đầu với âm thanh đơn âm ( infectious mononucleosis ), và sau đó phát triển âm thanh truyền hình đa kênh với hai kênh tín hiệu âm thanh độc lập ( stereo ). DTV cho phép tối đa five kênh tín hiệu âm thanh cộng với kênh loa trầm phụ ( âm thanh vòm ), với các chương trình phát sóng có chất lượng tương đương rạp chiếu phim và videodisk. [ twenty ]
Tạo tác nén, giám sát chất lượng hình ảnh và phân bổ băng thông [sửa |sửa mã nguồn ]
Hình ảnh DTV có một số khiếm khuyết mà không có trên truyền hình analogue hoặc rạp chiếu phim, vì những hạn chế ngày nay của tốc độ bit và thuật toán nén như MPEG-2. Khiếm khuyết này đôi chi được gọi là “ tiếng ồn muỗi “. [ twenty-one ] do cách thức hoạt động của hệ thống thị giác của victimize người, các khiếm khuyết trong một hình ảnh được định vị theo các đặc điểm cụ thể của hình ảnh. Tuy nhiên, hệ thống DTV được thiết kế để tận dụng các hạn chế khác của hệ thống thị giác của con người để giúp che giấu những khiếm khuyết này, ví dụ như bằng cách cho phép tạo tác nén nhiều hơn chi chuyển động nhanh trong đó mắt không thể theo dõi và nhận biết chúng một cách dễ dàng và ngược lại, giảm thiểu các tạo tác trong ảnh nền có thể được kiểm tra chặt chẽ trong một cảnh ( vì thời gian cho phép ). Các nhà khai thác phát sóng DTV mặt đất, truyền hình cáp, vệ tinh và internet kiểm soát chất lượng hình ảnh của mã hóa tín hiệu truyền hình bằng các thuật toán phức tạp, dựa trên khoa học thần kinh, chẳng hạn như công cụ đo lường chất lượng video cấu trúc tương tự ( SSIM ). Một công cụ khác, được gọi là ocular information fidelity ( VIF ), là một thuật toán hoạt động hàng đầu ở cốt lõi của hệ thống giám sát chất lượng television Netflix VMAF, chiếm khoảng thirty-five % tổng mức tiêu thụ băng thông của Hoa Kỳ .
Ảnh hưởng của việc tiếp nhận kém [sửa |sửa mã nguồn ]
Những thay đổi trong việc tiếp nhận tín hiệu từ các yếu tố như kết nối ăng-ten xuống cấp [ twenty-two ] hoặc điều kiện thời tiết thay đổi có thể làm giảm dần chất lượng của television analogue. Bản chất của truyền hình kỹ thuật số ban đầu là tạo right ascension một television có thể giải mã hoàn chỉnh, cho đến chi thiết bị nhận bắt đầu nhận được nhiễu lấn át tín hiệu mong muốn hoặc nếu tín hiệu quá yếu để giải mã. Một số thiết bị sẽ hiển thị hình ảnh bị cắt xén với thiệt hại đáng kể, trong chi các thiết bị khác có thể chuyển trực tiếp từ television có thể giải mã hoàn chỉnh sing không có television nào cả hoặc dừng thu sóng. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng vách đá kỹ thuật số ( cliff ). Lỗi khối có thể xảy right ascension chi quá trình truyền được thực hiện với hình ảnh nén. Lỗi khối trong một khung hình đơn lẻ thường dẫn đến các hộp đen trong một số khung hình tiếp theo, gây khó khăn cho việc xem. Đối với các vị trí xa, các kênh phát diện rộng, là tín hiệu tương tự, trước đây có thể sử dụng được trong tình trạng tuyết rơi và xuống cấp, còn với tín hiệu kỹ thuật số, có thể được giải mã hoàn chỉnh hoặc có thể hoàn toàn không khả dụng. Việc sử dụng các tần số cao hơn sẽ làm tăng thêm những vấn đề này, đặc biệt là trong trường hợp không có đường ngắm thẳng rõ ràng từ vị trí ăng-ten thu đến trạm phát, bởi vì các tín hiệu tần số cao hơn thường không thể đi qua chướng ngại vật một cách dễ dàng .
Ảnh hưởng đến công nghệ analogue cũ [sửa |sửa mã nguồn ]
Phần này cần được cập nhật. Vui lòng cập nhật bài viết này để phản ánh các sự kiện gần đây hoặc thông tin mới có sẵn.(Tháng 2 năm 2017) Các television receiver chỉ có bộ dò kênh analogue không thể giải mã truyền hình kỹ thuật số. Nguyên nhân là doctor of osteopathy sóng của analogue khá kém, hình ảnh chi xem có thể bị nhiễu, hỏng hình. chi ngừng phát sóng truyền hình analogue quảng bá, người dùng các loại television chỉ có bộ dò kênh analogue có thể sử dụng các nguồn truyền hình kỹ thuật số khác ( ví dụ : cáp, vệ tinh … ) hoặc có thể mua thiết bị giải mã tín hiệu truyền hình ( Set-top box ) để xem kênh kỹ thuật số mặt đất .
Sự biến mất của máy thu âm thanh television [sửa |sửa mã nguồn ]
Trước chi chuyển đổi sing television kỹ thuật số, truyền hình analogue phát âm thanh cho các kênh television trên tín hiệu sóng fermium riêng biệt từ tín hiệu television. Tín hiệu âm thanh fermium này có thể được nghe bằng radio tiêu chuẩn được trang bị các mạch điều chỉnh thích hợp. Tuy nhiên, sau chi nhiều quốc armed islamic group chuyển spill the beans truyền hình kỹ thuật số, không có nhà sản xuất radio di động nào phát triển một phương pháp thay thế cho radio cầm tay để chỉ phát tín hiệu âm thanh của các kênh truyền hình kỹ thuật số .
Các vấn đề môi trường [sửa |sửa mã nguồn ]
Việc áp dụng một tiêu chuẩn phát sóng không tương thích với các máy thu analogue hiện có đã tạo right ascension vấn đề số lượng lớn các máy thu tương tự bị loại bỏ trong quá trình chuyển đổi truyền hình kỹ thuật số. Theo một nhóm chiến dịch, một màn hình máy tính cathode-ray tube hoặc television receiver chứa trung bình eight thump ( 3,6 kilogram ) chì. [ twenty-three ] Theo một nguồn khác, chì trong thủy tinh của cathode-ray tube thay đổi từ 1,08 pound đến 11,28 pound, tùy thuộc vào kích thước và loại màn hình, nhưng chì ở dạng oxit chì “ ổn định và bất động ” trộn vào kính [ twenty-four ]. Người tantalum cho rằng chì có thể có tác động tiêu cực lâu dài đến môi trường nếu bị đổ như bãi rác. Tuy nhiên, thủy tinh có thể được tái chế tại các cơ sở được trang bị phù hợp [ twenty-five ]. Các phần khác của máy thu có thể bị xử lý như vật liệu nguy hiểm.
Hạn chế của địa phương đối với việc xử lý các tài liệu này rất khác nhau ; trong một số trường hợp, các cửa hàng đã qua sử dụng đã từ chối chấp nhận các máy thu truyền hình màu đang hoạt động để bán lại cause qi phí xử lý television không bán được ngày càng tăng. Những cửa hàng tiết kiệm vẫn đang chấp nhận television receiver được tặng đã báo cáo sự armed islamic group tăng đáng kể về máy thu truyền hình đã qua sử dụng có điều kiện tốt bị bỏ rơi bởi những người xem thường mong muốn chúng không hoạt động sau chi chuyển đổi kỹ thuật số. [ twenty-six ] Tại michigan vào năm 2009, một người tái chế đã ước tính rằng cứ four hộ armed islamic group đình là sẽ có one hộ sẽ vứt bỏ hoặc tái chế một chiếc television receiver vào năm sau. [ twenty-seven ] Việc chuyển đổi truyền hình kỹ thuật số, chuyển đổi sing các máy thu truyền hình độ nét cao và thay thế cathode-ray tube bằng màn hình phẳng là tất cả các yếu tố làm tăng số lượng máy thu truyền hình dựa trên cathode-ray tube bị loại bỏ.
Liên kết ngoài [sửa |sửa mã nguồn ]
Tham khảo thêm : Đầu thu DVB T2