Hình minh họa. Nguồn: thebluediamondgallery
Định nghĩa
Giá hay giá cả trong tiếng Anh được gọi là Price. Theo học thuyết giá trị, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện nhiều mối quan hệ lớn trong nền kinh tế.
Trong một số thị trường, giá cả hoàn toàn do thị trường hay lực lượng cung cầu quyết định. Ví dụ: thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Trong một số thị trường các nhà cung cấp lớn có tác động đáng kể tới giá cả thị trường. Ví dụ: thị trường độc quyền bán.
Trong một số trường hợp, giá cả có thể bị chính phủ qui định hay điều tiết bằng các công cụ của chính sách giá cả và thu nhập.
(Theo Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân)
Thứ nhất, sự thay đổi của giá cả luôn tác động đến hành vi của người tiêu dùng.
Khi mức giá tăng lên, người tiêu dùng có khuynh hướng cắt giảm nhu yếu tiêu dùng của mình. Ngược lại, khi mức giá hạ xuống, người tiêu dùng được khuyến khích ngày càng tăng mức sử dụng sản phẩm & hàng hóa .
Giá hàng hoá cao sẽ khiến cho người tiêu dùng phải cân nhắc nhiều hơn mỗi khi ra quyết định mua sắm, đồng thời có ý thức tiết kiệm hơn trong việc tiêu dùng hàng hoá. Ngược lại, khi giá một loại hàng hoá được xem là quá thấp, người tiêu dùng sẽ có khuynh hướng sử dụng hàng hoá một cách hào phóng hơn.
Thứ hai, sự biến động của giá cả cũng luôn ảnh hưởng đến hành vi của những người sản xuất.
Giá sản phẩm & hàng hóa tăng cao sẽ khuyến khích người sản xuất ngày càng tăng sản lượng sản phẩm & hàng hóa. Giá sản phẩm & hàng hóa hạ xuống thấp lại tạo ra áp lực đè nén buộc những người này phải cắt giảm sản lượng .
Thứ ba, hệ thống giá cả được coi như một kênh thông tin hữu ích trong việc ra quyết định.
Trong nền kinh tế thị trường, sự lên xuống linh động của mạng lưới hệ thống giá cả chính là một kênh thông tin hữu dụng về tình hình thị trường để những người sản xuất và tiêu dùng ra quyết định hành động .Khi giá của một loại sản phẩm & hàng hóa đang tăng, nó hoàn toàn có thể là một tín hiệu cho thấy sự thiếu vắng sản phẩm & hàng hóa trên thị trường ( do nhu yếu về sản phẩm & hàng hóa ngày càng tăng hay do nguồn cung sản phẩm & hàng hóa thiếu vắng ). Trong trường hợp này, việc lan rộng ra sản xuất hay hạn chế tiêu dùng là thích hợp không chỉ với cá thể những người sản xuất, tiêu dùng mà cả với xã hội nói chung .Còn khi giá của một loại sản phẩm & hàng hóa đang đi xuống, đó sẽ là thông điệp của thị trường về sự dư thừa tương đối của sản phẩm & hàng hóa. Dựa trên thông điệp này, phản ứng cắt giảm lượng sản phẩm & hàng hóa đáp ứng của người sản xuất hay lan rộng ra tiêu dùng của người tiêu thụ được thực thi .
Thứ tư, trong quan hệ giữa các thị trường với nhau, sự vận động của hệ thống giá cả còn tạo ra một cơ chế phân bổ nguồn lực hữu hiệu.
Dựa vào sự lên xuống của những mức giá, nguồn lực được phân chia cho những ngành kinh tế tài chính khác nhau theo hướng : ở ngành nào mà giá tương đối của sản phẩm & hàng hóa ( so với giá của những sản phẩm & hàng hóa khác ) càng cao ( chứng tỏ nhu yếu tương đối của xã hội về sản phẩm & hàng hóa này càng lớn ), thì ở đó càng lôi cuốn được nhiều nguồn lực của xã hội và ngược lại .
Thứ năm, vai trò cung cấp thông tin nhằm tạo ra một cơ chế phân bổ nguồn lực của giá cả là yếu tố cực kì quan trọng đối với nền kinh tế.
Nó làm cho giá cả trở thành tín hiệu có năng lực liên kết những quyết định hành động riêng rẽ của hàng nghìn, hàng triệu cá thể khác nhau trong nền kinh tế tài chính với nhau nhằm mục đích tạo ra sự cân đối hay ăn khớp với nhau giữa cung và cầu, giữa sản xuất và tiêu dùng .
Sự vận động của giá cả hướng về mức giá cân bằng nói lên khả năng tự vận hành, tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vi mô, NXB Hà Nội)
Source: https://suanha.org
Category : Thị Trường