MENU

Nhà Việt

Phục Vụ

24/24

Email Nhà Việt

[email protected]

Nhà Đinh – Wikipedia tiếng Việt

Nhà Đinh (chữ Nôm: 茹丁, chữ Hán: 丁朝, Hán Việt: Đinh triều) là triều đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước và kết thúc năm 980 khi con của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Phế Đế nhường ngôi cho Lê Hoàn.

Nhà Đinh là triều đại mở đầu chế độ phong kiến tập quyền và thời kỳ tự chủ với một chế độ đứng đầu bởi một Hoàng đế của nước Việt Nam.[1] Vương triều nhà Đinh đã mở nền chính thống cho thời đại phong kiến độc lập cho nên trong các bộ chính sử kể từ Đại Việt sử ký toàn thư thế kỷ XV, Đại Việt sử ký tiền biên thế kỷ XVIII đến Khâm định Việt sử thông giám cương mục thế kỷ XIX thì triều đại này đều được các tác giả lấy làm mốc mở đầu phần Bản kỷ hoặc Chính biên. Tiếp đến, việc xưng đế hiệu Đại Thắng Minh Hoàng đế của Đinh Tiên Hoàng mang ý thức lớn về sự tự tôn của nước Việt, có hàm ý so sánh với các Hoàng đế Trung Hoa.[2]

Thống nhất giang sơn[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 944, Ngô Quyền (vua tự xưng là Ngô Vương) mất, anh/em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.

Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn – con thứ của Ngô Quyền – làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương .Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, những tướng nhà Ngô cùng những thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế cục mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân .Trong số những lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh ( Đinh Hoàn ). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Có cha là Đinh Công Trứ – nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức Thứ sử Hoan Châu ( Nghệ An, thành phố Hà Tĩnh ngày này ) .Thời kỳ đó, Đinh Bộ Lĩnh đã cùng những người thân thương tổ chức triển khai lực lượng, rèn vũ khí, xây dựng địa thế căn cứ ở Hoa Lư. Sau vì sự không tương đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đội binh của Sứ quân Trần Minh Công ( Trần Lãm ) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết, [ 3 ] Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, chiêu mộ binh lính, chiêu dụ được sứ quân Phạm Bạch Hổ cùng nhiều sứ quân khác chống nhà Ngô và tiến đánh những sứ quân còn lại .Trong hơn 3 năm, nhờ kĩ năng của mình, Đinh Bộ Lĩnh được nhân dân nhiều địa phương giúp sức, ủng hộ, đánh đâu thắng đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Các sứ quân lần lượt bị vượt mặt hoặc xin hàng. Tình trạng cát cứ chấm hết. Cuối năm 967, đất nước trở lại bình yên, thống nhất .

Đinh Tiên Hoàng[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư .Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai : Đinh Liễn, Đinh Toàn ( Đinh Tuệ ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979 .Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng những nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, cho rằng chủ mưu là Lê Hoàn ( sau này làm vua và gọi là Lê Đại Hành ) và Dương hậu .

Đinh Phế Đế[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, là Đinh Phế Đế .Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tiễn nằm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn con thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão chết .Năm 980, nhà Tống lấm tấm điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm ( 968 – 980 ) .Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống ( tháng 4 năm 981 ). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương xuất hiện trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thủy Thanh Hóa, Đinh Toàn bị trúng tên chết .

Bộ máy chính quyền sở tại[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 971, Đinh Tiên Hoàng mở màn lao lý cấp bậc văn võ trong triều đình. Trong triều có sự tham gia của những nhà sư vì những góp phần của họ trong quy trình dẹp loạn 12 sứ quân [ 4 ]. Vua Đinh phong cho những quan văn võ :

  • Nguyễn Bặc làm Định quốc công
  • Đinh Điền làm Ngoại giáp
  • Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư (chức vụ coi việc hình án)
  • Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân
  • Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư
  • Trương Ma Ni làm Tăng lục
  • Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.

Năm 975 vua Đinh ban quy định áo mũ cho các quan văn võ[5]. Bộ máy chính quyền nhà Đinh vẫn được xem là còn đơn sơ[6].

Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số theo lý thuyết là 1 triệu người.[cần dẫn nguồn]

Tuy nhiên, trong các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu “ngụ binh ư nông” như nhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần[7]; còn Trần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người[8].

Do tác động ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hoàng dùng pháp lý khắt khe để trừng trị .Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này :

Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: “Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn”. Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm[5].

Trần Trọng Kim cho rằng ” hình uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới từ từ được yên “. [ 8 ]
Nhà Tống đang trên đường thống nhất Trung Quốc sau hơn 50 năm loạn lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nước Nam Hán ở cạnh nước Đại Cồ Việt. Năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với Tống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương Bắc từ đó được duy trì khá đều đặn và tự do .

Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ[5].

Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống[5].

Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là Phò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau ( 977 ), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới là Tống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao ở đầu cuối giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập .
Thời kỳ phục quốc của Nước Ta thế kỷ 10, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng Vương và tới vua Đinh xưng làm Hoàng đế. Sau 1 số ít vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc gồm có Triệu Vũ Đế, Triệu Văn Đế ( nếu công nhận tính chính thống của nhà Triệu ), Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế rồi bị thất bại trước họa ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Nước Ta mới thực sự vươn tới đỉnh điểm ngôi vị và thương hiệu, chứng minh và khẳng định vị thế vững chãi của một vương quốc độc lập. Trong hoạt động giải trí ngoại giao, nhà Đinh được nhà Tống thừa nhận và coi trọng .Việc vua Đinh khôn khéo tích hợp dùng võ thuật và giải pháp chiêu hàng những sứ quân để sớm chấm hết loạn 12 sứ quân ( 968 ) là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu Trung Quốc, diệt nước Nam Hán ( 971 ), áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự Open của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất vương quốc bị san sẻ tan nát, Nước Ta khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương Bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành xong việc thống nhất phương nam .Kế tục nhà Ngô, nhà Đinh liên tục xây dựng cỗ máy quản lý trên chủ quyền lãnh thổ, dù chưa được hoàn bị như nhà Lý sau này nhưng trong bước đầu đã đi vào nền nếp .Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực ra chỉ có 1 đời vua Tiên Hoàng .

Di tích thời nhà Đinh[sửa|sửa mã nguồn]

Di tích về thời Đinh là các di tích có lịch sử hình thành từ thời Đinh hoặc có sau thời đại nhà Đinh, thờ các nhân vật lịch sử thời Đinh. Hiện ở Việt Nam có khoảng trên 500 di tích về thời Đinh.

Tỉnh Ninh Bình là vùng đất có kinh đô Hoa Lư, ở đây có nhiều di tích lịch sử tương quan đến triều đại nhà Đinh, đặc biệt quan trọng nằm ở những huyện Hoa Lư, Nho Quan và Gia Viễn như : cố đô Hoa Lư với sông Sào Khê, động Thiên Tôn, động Hoa Lư, … Đặc biệt, quần thể danh thắng Tràng An với rất nhiều di tích lịch sử thời Đinh đã được UNESCO công nhận là di sản quốc tế năm năm trước .

  • Đại Việt Sử ký Toàn thư.
  • Nguyễn Danh Phiệt (1990), Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội.
  • Lê Văn Siêu (2004), Việt Nam văn minh sử cương, Nhà Xuất bản Thanh niên.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://suanha.org
Category : Sửa Nhà

Alternate Text Gọi ngay
Liên kết hữu ích: XSMB