Kế hoạch hoá gia đình là việc lập kế hoạch khi nào có trẻ em,[1] và việc sử dụng kiểm soát sinh sản[2][3] và các kỹ thuật khác để thực hiện các kế hoạch đó. Các kỹ thuật khác thường được sử dụng gồm giáo dục giới tính,[3][4] ngăn chặn và quản lý các bệnh lây truyền qua đường tình dục,[3] tư vấn trước khi mang thai[3] và quản lý mang thai, và quản lý vô sinh.[2]
Kế hoạch hoá gia đình thỉnh thoảng được sử dụng như một thuật ngữ đồng nghĩa với kiểm soát sinh sản, dù nó thường có nội hàm lớn hơn. Nó chủ yếu được áp dụng với một cặp nữ – nam muốn hạn chế số lượng trẻ em họ có và/hay kiểm soát thời gian mang thai (cũng được gọi là giãn cách sinh sản).
Các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được định nghĩa là ” giáo dục, y tế tổng lực hay những hoạt động giải trí xã hội được cho phép những cá thể, gồm cả người chưa thành niên, tự do quyết định hành động số lượng và thời hạn giãn cách giữa những đứa trẻ và lựa chọn những giải pháp để thực thi điều đó. ” [ 4 ]
Nuôi dưỡng một đứa trẻ đòi hỏi khá nhiều nguồn tài nguyên: thời gian,[5] xã hội, tài chính[6], môi trường.
Kế hoạch hoá có thể giúp đảm bảo có được các nguồn tài nguyên đó.
Bạn đang đọc: Kế hoạch hóa gia đình – Wikipedia tiếng Việt
Chờ tối thiểu tới khi bà mẹ đủ 18 tuổi trước khi tìm cách có thai là cách để cải tổ sức khỏe thể chất bà mẹ và trẻ nhỏ. [ 7 ] Tương tự, nếu mong ước có thêm con sau đứa con thứ nhất, bà mẹ và trẻ sơ sinh sẽ có sức khỏe thể chất tốt hơn nếu đợi tối thiểu hai năm sau lần sinh trước ( nhưng không hơn 5 năm ). [ 7 ] Sau một lần sảy thai hay phá thai, nên chờ tối thiểu 6 tháng. [ 7 ]
Sinh đẻ và chăm nom sức khỏe thể chất trước khi sinh mất khoảng chừng $ 7,090 nếu sinh thông thường tại Hoa Kỳ năm 1996. [ 8 ] Bộ nông nghiệp Mỹ ước tính cho việc sinh một đứa trẻ năm 2007, một gia đình Mỹ sẽ tiêu trung bình khoảng chừng $ 11,000 tới $ 23,000 mỗi năm trong 17 năm tiên phong của đứa trẻ. [ 5 ] ( Tổng ước tính đã bù trừ lạm phát kinh tế : $ 196,000 tới $ 393,000, tùy thuộc vào thu nhập hộ. ) [ 5 ]
Một cơ sở kế hoạch hoá gia đình tại Kuala Terengganu, Malaysia.
Nguồn phân phối kinh tế tài chính lớn nhất của quốc tế về dân số và sức khỏe thể chất sinh sản là Quỹ dân số Liên hiệp quốc ( UNFPA ). Các tiềm năng chính của Chương trình Hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển gồm :
Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ) và Ngân hàng Thế giới ước tính rằng chỉ với $ 3.00 trên người trên năm là đủ cho nhu yếu cơ bản về kế hoạch hóa gia đình, chăm nom sức khỏe thể chất bà mẹ và trẻ sơ sinh tại những vương quốc đang tăng trưởng. Nó sẽ gồm có tránh thai, chăm nom sớc khỏe trước khi sinh, khi sinh và sau khi sinh ngoài việc tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình và khuyến khích sử dụng bao cao su để ngăn bệnh lây truyền qua đường tình dục. [ 9 ]
Chính sách một con của Trung Quốc khuyến khích các cặp vợ chồng không có quá một con. Chính sách dân số của Trung Quốc được cho là đã góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tăng dân số từng rất cao trước khi chính sách này được áp dụng. Nó đã bị chỉ trích rằng việc áp dụng chính sách đã dẫn tới những trường hợp bắt buộc phá thai và bắt buộc triệt sản. Tuy nhiên, vì hình thức phạt khi mang thai “ngoài kế hoạch” chỉ là một khoản phạt, cả việc bắt buộc phá thai và bắt buộc triệt sản đều có thể bị kết tội tấn công có chủ đích, có thể bị kết án tới 10 năm tù.
Tại Hồng Kông, Eugenics League được thành lập năm 1936, nó trở thành Hội kế hoạch hoá gia đình Hồng Kông năm 1950.[10] Tổ chức này cung cấp tư vấn về kế hoạch hoá gia đình, giáo dục giới tính, các dịch vụ kiểm soát sinh sản cho người dân Hồng Kông. Trong thập niên 1970, vì sự gia tăng dân số nhanh chóng, tổ chức đã tung ra chiến dịch “Hai là đủ”,[10] giúp làm giảm bớt tỷ lệ sinh thông qua các biện pháp giáo dục.
Hội kế hoạch hóa gia đình Hồng Kông, [ 11 ] đã xây dựng International Planned Parenthood Federation với những đối tác chiến lược ở bảy vương quốc khác. [ 11 ]
Iran là một vương quốc khác đã thành công xuất sắc trong việc giảm mạnh tỷ suất sinh trong những năm gần đây .
Title X của Public Health Service Act, [ 12 ] là một chương trình của cơ quan chính phủ Hoa Kỳ để cung ứng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho những người có nhu yếu. Nhưng nguồn vốn cho Title X theo Phần Trăm tổng nguồn vốn cho những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình công đã giảm liên tục từ 44 % tổng chi năm 1980 xuống còn 12 % năm 2006. Medicaid đã tăng từ 20 % lên 71 % trong cùng thời hạn đó. Năm 2006, Medicaid góp $ 1.3 tỷ cho kế hoạch hóa gia đình công cộng. [ 13 ]
Chính phủ Ấn Độ đã chú trọng tới các biện pháp kiểm soát dân số và gia tăng nhận thức về những lợi ích khi giảm tăng trưởng dân số, gồm cả một cuộc sống tốt hơn, giáo dục, môi trường và sức khoẻ cho mọi cá nhân. Dù có những nỗ lực đó, các cặp vợ chồng[ai nói?] thường cho rằng các con họ cần có nhiều anh em.[cần dẫn nguồn] Các cặp vợ chồng[ai nói?] cảm thấy rằng họ có khả năng nuôi nấng hơn một đứa trẻ và không nhận ra rằng cần phải có một môi trường bền vững để có khả năng hỗ trợ cho một dân số đang gia tăng. Các chiến dịch tăng cường nhận thức gồm “We two, our’s one”, “Girl or Boy, let there just be one child”.[cần dẫn nguồn]
Quốc tế
Quốc gia
Bản mẫu : Sức khỏe sinh sảnBản mẫu : Sức khỏe công cộng
Source: https://suanha.org
Category : Gia Đình