Xé ruột gan…
Thắp nén nhang tưởng niệm những anh hùng liệt sỹ, cho vong linh 10 nữ trinh lịch sử một thời, cùng đồng đội ngồi dưới rặng cây tỏa bóng rợp trời, nhà thơ Yến Thanh đã nhiều lần bật khóc. Mỗi phút, mỗi giây trong cái ngày đau đớn đấy vẫn hiện rõ mồn một trong hồi ức của ông. Nhà thơ Yến Thanh, tác giả bài thơ “Cúc ơi” làm lay động lòng người Chiều hôm ấy, 24/7/1968, đường qua Đồng Lộc tắc xe, 40 xe bồn loại 4,8 m3 chở xăng vào mặt trận đang nằm chờ đường ở bãi giấu xe. Lệnh chiến sỹ Trần Quang Đạt – Phó quản trị tỉnh – Trưởng ban giải tỏa Đồng Lộc những đơn vị chức năng làm thêm ban ngày để kịp thông xe. Tiểu đội 4 của Võ Thị Tần gồm 16 người, nhưng 6 người được điều chuyển thao tác khác, còn lại 10 người xuất hiện tại đường 15A cạnh chân núi Trọ Voi. “ Tần và 9 chị em vừa đào xong hai hầm chữ T giao nhau, cách mép đường phía Tây khoảng chừng 15 m. Cúc nhận đào chiếc hầm tròn cá thể để dành riêng cho “ thủ trưởng ” Tần chỉ huy. Hai đợt máy bay Mỹ quần đảo dội bom xuống hiện trường rồi bỏ đi, cả Tiểu đội bảo đảm an toàn, Tần cho san lấp hố bom xong đang giải lao. Đợt thứ ba có một tốp ba chiếc F105, F4H lao đến, Tần cho chị em ẩn nấp, lần này chúng không dội bom mà quần đảo mấy vòng rồi quay đầu ra biển Đông. Bỗng nhiên một trong ba chiếc lù lù quay lại. Tần hô chị em xuống hầm cấp tốc, Tần vào sau cuối. Tất cả nháo nhào lao vào hai chiếc hào dài vừa đào xong chưa có nắp đậy. Và một quả bom tấn từ máy bay lao xuống nổ trùm lên cả Tiểu đội, lúc ấy là 16 giờ ngày 24/7/1968 ” – nhà thơ Yến Thanh đau lòng nhớ lại. Từ đài quan sát, C trưởng Nguyễn Thế Linh chạy xuống Tiểu đội 5, Tiểu đội A8 của Trần Triện và những anh lái máy ủi gần đó đều chạy lại. Khi khói bom tản dần ra chẳng thấy người nào A4 Open, vài cái cuốc xẻng và mũ nón, giày dép bay lên miệng hố bom. Nguyễn Thế Linh ra lệnh cho đào tìm. Ông kể tiếp : Sau hai tiếng đồng hồ đeo tay vừa đào vừa khóc, lúc mặt trời khuất trên eo núi Trọ Voi, hoàng hôn khởi đầu buông xuống thì Trần Triện đào phải cán chiếc cáng và túi thuốc cấp cứu. Gỡ lên, đất vội tụt xuống để lộ mái tóc đen hiện ra. Bới nhẹ đất bồng lên được Võ Thị Tần, thân thể đang mềm, khung hình còn ấm nhưng trái tim đã ngừng đập, mặt tím tái. Không ai bảo ai, toàn bộ đều ngã mũ nón : Thế là hết ! Hàng trăm khối đất đá tung lên, lấp xuống, Tần nấp ở đầu cuối không còn thì những người nằm trong làm thế nào sống nổi. Lần lượt bới lên 6 người ẩn nấp hầm ngoài cùng là Nguyễn Thị Xuân ( Vĩnh Lộc ), rồi đến Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hà, Trần Thị Rạng và ở đầu cuối là Trần Thị Hường. Tất cả đã hi sinh, khung hình còn nguyên vẹn, ấm nóng nhưng tim đã ngừng đập. Đào tiếp hầm thứ hai vuông góc với hầm lúc nãy lại tìm thấy Dương Thị Xuân, Võ Thị Hợi và Hà Thị Xanh cũng đã tắt thở. Cả 9 người được đặt lên 9 cáng xếp một hàng ngang như khi còn sống Tiểu đội tập hợp.
“Cúc ơi! em ở đâu? Đất nâu lạnh lắm”
Riêng Hồ Thị Cúc – Tiểu đội phó không tìm thấy. Theo nhà thơ Yến Thanh, vào thời gian đó có người đặt ra kỳ vọng Cúc còn chạy thoát lên núi đâu đó, nhưng hy vọng nhỏ nhoi, phép màu ấy đã không xảy ra.
Nữ anh hùng Hồ Thị Cúc Đêm 24/7, theo lệnh chiến sỹ Trần Quang Đạt, mười hai cái hòm cấp táng được chở về, đơn vị chức năng cho khâm liệm và mai táng cả 9 cô sau eo núi Bãi Dịa. Vậy là 9 cô đã mai táng nhưng đợi tìm được thi thể Hồ Thị Cúc mới làm lễ truy điệu. Hết buổi sáng ngày 25, Ty Giao thông vận tải đường bộ điều máy ủi ĐT 54 ra đào tìm Hồ Thị Cúc. Chi bộ C552 do chiến sỹ Nguyễn Hải Đường người xã Xuân Song ( Nghi Xuân ) làm bí thư họp đột xuất, ra nghị quyết cho đơn vị chức năng liên tục đào bằng tay để tìm đảng viên Hồ Thị Cúc và không được cho phép đào bằng máy sợ xâm hại thi thể người chiến sỹ thân yêu của mình. Máy ủi AHLLVT Uông Xuân Lý quản lý và vận hành ra hiện trường rồi phải đánh quay về. Chiều 25/7, tức ngày thứ hai đào tìm Hồ Thị Cúc, Yến Thanh vào nhà C trưởng Nguyễn Thế Linh, nhìn thấy cái hòm cấp táng còn lại đã được chuyển ra đầu hồi vườn tro nhà ông Biểu ( bố Nguyễn Thế Linh ). “ Đau xót, nghĩ về số phận hẩm hiu Hồ Thị Cúc. Sống đã khổ, chết rồi vẫn khổ, tôi nấc lên rồi ra ngồi bên hòm Cúc viết bài thơ tạm lấy tên là “ Hồn trinh nữ ở đâu ”. Viết sau hai tiếng thì xong, chần chừ đề bài lạ lẫm nên tôi sửa thành “ Cúc ơi ! ” rồi giấu vào túi áo không dám nói với ai sợ bị trách là người vô tình. Sáng hôm sau, sáng 26/7/1968, tôi và chiến sỹ Bí thư ra ngay hố bom nơi đang tìm Cúc. Cả hai đứng nghiêm trang thắp hương trên chiếc bàn nhỏ có bát cơm úp và lọ hương là một đoạn thân cây chuối đang cháy dở. Tôi cầm giấy đọc rất nhỏ đủ mình nghe cả bài thơ “ Cúc ơi ” rồi đốt đi, anh Hải Đường, Bí thư đứng bên cạnh tôi chắc cũng nghe được ” – nhà thơ Yến Thanh nhớ lại. Xong đó, cả hai chúng tôi quay về đơn vị chức năng lúc đó khoảng chừng 8 giờ hơn. Đến gần 10 giờ thì được tin Tiểu đội 8 Trần Triện đã tìm được thi thể Hồ Thị Cúc. Theo miêu tả của nhà thơ Yến Thanh, lúc được tìm thấy, nữ tiểu đội phó Hồ Thị Cúc ngồi trong chiếc hầm tròn chiều hôm trước do tay Cúc đào, đầu đội nón bẹp dí, vai còn vác cái cuốc. Hai tay Cúc bầm dập, máu đọng lại đã khô. Có lẽ, sau khi bom vùi lấp Cúc còn sống đã nỗ lực bươi quào đất để nhoi lên nhưng trước khối đất đá đồ sộ Cúc đành bất lực quyết tử. Sau đó nhà thơ Yến Thanh gửi bài thơ “ Cúc ơi ” cho tiết mục “ Tiếng thơ ” của Đài lời nói Nước Ta. Vào một đêm tháng 8/1968, Đài lời nói Nước Ta vang lên bài thơ “ Cúc ơi ” qua giọng đọc của nghệ sĩ Văn Thành. Một tác giả đã viết : “ Bài thơ của Yến Thanh không có câu chữ đơn cử nào nói về tội ác giặc Mỹ xâm lược trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày 24 tháng 7 năm 1968 đã giết chết 10 cô gái người trẻ tuổi xung phong đang ở độ tuổi tươi đẹp nhất của một đời người nhưng có sức thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc Mỹ trong trái tim người đọc qua việc tác giả dựng lại chân dung người nữ người trẻ tuổi xung phong Hồ Thị Cúc và nỗi xót thương của đồng đội “.CÚC ƠI!
Tiểu đội đã xếp một hàng ngang Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp ? Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ – Xuân – Hà – Hường – Hợi – Rạng – Xuân – Xanh
Xem thêm: Tư Vấn Tâm Lý
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh Chỉ thiếu mình em ( Chín bỏ làm mười răng được ! ) Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng Cúc ơi ! em ở đâu ? Đất nâu lạnh lắm Da em xanh Áo em thì mỏng dính ! Cúc ơi ! em ở đâu ? Về với bọn anh tắm nước sông Ngàn Phố Ăn quýt đỏ Sơn Bằng Chăn trâu cắt cỏ Bài toán lớp Năm em còn chưa nhớ Gối còn thêu dở Cơm chiều chưa ăn. Ở đâu hỡi Cúc Đồng đội tìm em Đũa găm cơm úp Gọi em Gào em
Khan cổ cả rồi
Cúc ơi !
Văn Dũng (lược ghi)
Source: https://suanha.org
Category : Tư Vấn