MENU

Nhà Việt

Phục Vụ

24/24

Email Nhà Việt

[email protected]

Cách mạng công nghiệp lần thứ hai – Wikipedia tiếng Việt

Cách mạng công nghiệp lần thứ hai ( 1871-1914 ) là một giai đoạn công nghiệp hóa nhanh chóng và xảy ra nhiều sự tiêu chuẩn hóa, sản xuất hàng loạt và phát kiến khoa học từ cuối thế kỷ nineteen đến đầu thế kỷ twenty. Vì thời kỳ này đi liền với sự nổi lên của các cường quốc công nghiệp khác bên cạnh nước Anh, đó là Đức và Hoa Kỳ, thuật ngữ này được dùng nhằm nhấn mạnh đóng góp của các quốc armed islamic group này và có thể, còn là để hạ thấp vai trò của nước Anh. Thời gian này có sự phát triển của các ngành công nghiệp hóa chất, dầu mỏ, thép và điện lực. Sản xuất hàng loạt hàng tiêu dùng được phát triển, các lĩnh vực như đồ uống và thực phẩm, quần áo, vận tải và giải trí gồm rạp chiếu phim, phát thanh, máy ghi âm được thương mại hóa đáp ứng nhu cầu dân chúng và tạo nhiều công ăn việc làm. Sự phát triển mau lẹ này, tuy vậy, là yếu tố đưa đến thời gian trì trệ những năm 1873-1896 và giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản tài chính độc quyền sau này .

Xác định thời gian [sửa |sửa mã nguồn ]

Có lẽ năm 1871 được chọn là năm bắt đầu của giai đoạn hai này vì sự ra đời của nước Đức thống nhất sau chiến tranh Pháp-Phổ ( 1870-1871 ). Sau chiến tranh, nước Đức thực sự trở thành một cường quốc hùng mạnh không chỉ ở Châu Âu mà còn trên tầm thế giới. Cũng thời gian này, Hoa Kỳ đã vượt Anh quốc trở thành quốc armed islamic group công nghiệp số một toàn cầu. Có thể nói mầm mống của giai đoạn này từ giữa thế kỷ nineteen với sự lớn mạnh của đường sắt và tàu biển động cơ hơi nước.

Ở Hoa Kỳ, Cách mạng công nghiệp lần hai gắn liền với quá trình điện khí hóa mà những nhà tiên phong là Nikola tesla, thomas Alva edison, george westinghouse và sự áp dụng quản lý dựa trên cơ sở khoa học bởi frederick winslow taylor .
Đế chế Đức thay thế Anh quốc trở thành quốc armed islamic group dẫn đầu Châu Âu về công nghiệp. Có được vị trí này là nhờ barium yếu tố :

  • Đức tiến hành công nghiệp hóa sau Anh, nên đúc rút những kinh nghiệm của nước Anh, tiết kiệm rất nhiều thời gian, tiền của và công sức. Cũng nhờ đi sau, Đức sử dụng những công nghệ mới nhất, trong khi đó, người Anh vẫn sử dụng những công nghệ đắt đỏ và lạc hậu, họ không thể (có thể cả không muốn) áp dụng những thành quả từ chính quá trình phát triển của họ.
  • Trong lĩnh vực nghiên cứu và khoa học, người Đức đầu tư lớn hơn Anh.
  • Hệ thống cartel kiểu Đức – liên minh độc quyền tập trung ở mức độ rất cao cho phép sử dụng hiệu quả nguồn tư bản linh động.
  • Một số tin rằng bồi thường chiến phí từ Pháp sau khi đánh bại nước này trong Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871 đã cung cấp vốn đầu tư cần thiết để cho phép đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng như đường xe lửa. Điều này cung cấp một thị trường rộng lớn cho các cải tiến sản phẩm thép và giao thông vận tải ngay khi hoàn thành. Sự sáp nhập vùng Alsace-Lorraine cũng mang lại cho nước Đức một số nhà máy lớn.

Ở Hoa Kỳ, Cách mạng công nghiệp lần thứ hai thường được liên kết với sự điện khí hóa của các nhà phát minh tiên phong Nikola tesla, thomas Alva edison và george westinghouse và trường phái quản lý bằng khoa học áp dụng bởi frederick winslow taylor .

Giai đoạn này, gần giống như giai đoạn trước đó được đánh dấu bởi số lượng rất lớn người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, nạn thất nghiệp, thù lao ít ỏi và nạn mại dâm vì không đủ nguồn thu nhập. Nó cũng chứng kiến sự tăng lên số công nhân văn phòng và sự lớn mạnh của các tổ chức công đoàn .

Các phát minh [sửa |sửa mã nguồn ]

Nhiều sáng chế đã được cải thiện trong Cách mạng công nghiệp thứ hai, bao gồm cả indium ấn và động cơ hơi nước .
Trong thời gian này, một trong những phát minh cốt yếu nhất của việc truyền bá các ý tưởng kỹ thuật là in ấn relish quay dẫn động bằng năng lượng hơi nước, một phát minh từ nhiều thập kỷ trước. Kỹ thuật này được phát triển là kết quả của phát minh máy sản xuất giấy cuộn từ đầu của thế kỷ nineteen. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai cũng chứng kiến xuất hiện của kỹ thuật in linotype và monotype. Quy trình làm giấy từ bột gỗ thay thế nguyên liệu là bông và lanh vốn là những nguồn hạn chế. Sự truyền bá kiến thức ở nước Anh, ít nhất, cũng là kết quả của việc xóa bỏ thuế giấy trong thập kỷ 1870 khuyến khích sự phát triển của báo chí và các tạp chí kỹ thuật nhờ làm rẻ chi phí in ấn. Các sáng chế và các ứng dụng được truyền bá nhiều hơn nữa trong cuộc Cách mạng này ( hoặc giai đoạn thứ hai này của Cách mạng Công nghiệp ). Trong thời gian này đã thấy sự tăng trưởng của máy công cụ tại Mỹ có khả năng chế tạo các thiết bị chính xác trong các máy khác. Nó cũng là thời gian radium đời sản xuất dây chuyền hàng tiêu dùng.

Động cơ hơi nước đã được phát triển và áp dụng ở Anh trong thế kỷ eighteen, và được xuất khẩu chậm chạp whistle châu Âu và phần còn lại của thế giới trong thế kỷ nineteen, cùng với các cách mạng công nghiệp. Trong thực tế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, sự phát triển động cơ đốt trong ở một số nước công nghiệp phát triển và trao đổi ý tưởng đã được nhanh hơn nhiều. Một ví dụ, động cơ đốt trong chạy trên khí than đá đầu tiên đã được phát triển act Etienne Lenoir ở Pháp, nơi mà nó đã có một số thành công hạn chế như là một động cơ nhỏ trong công nghiệp nhẹ. Động cơ đốt trong đã được thử nghiệm là một động lực cho xenon ô tô sơ khai ở Pháp trong thập kỷ 1870, nhưng nó không bao giờ được sản xuất với số lượng đáng kể. Chính Gottlieb daimler của Đức là tạo right ascension đột phát chỉ vài năm sau bằng việc sử dụng dầu mỏ làm nhiên liệu xenon ô tô thay cho khí than. Sau đó, henry ford chế tạo hàng loạt ô tô với động cơ đốt trong, tạo nên tác động to lớn với xã hội. Động cơ xăng hai kỳ, ban đầu được phát minh bởi kỹ sư người Anh joseph day ở thành phố bath. Ông chuyển giao phát minh cho các doanh nhân Mỹ và từ đây nó mau chóng trở thành “ nguồn năng lượng của người nghèo ”, dẫn động máy móc nhỏ như xenon máy, xuồng có động cơ và máy bơm. Nó cũng là nguồn năng lượng can cậy của các cơ sở sản xuất nhỏ trước chi điện được phổ biến rộng rãi .

informant : https://suanha.org
category : Kỹ Thuật Số
Alternate Text Gọi ngay
Liên kết hữu ích: XSMB