Có thể nói Tử vi là môn khoa học huyền bí đứng đầu trong lĩnh giải đoán số mệnh con người. Tuy nhiên để giải đoán lá số tử vi chuẩn thì không hề dễ dàng với nhiều người. Hôm nay tôi xin tổng hợp và trình bày kinh nghiệm để luận đoán lá số tử vi chính xác và đầy đủ nhất.
Quý vị nào chưa biết cách lập lá số tử vi thì tham khảo thêm bài viết: 7 bước lập lá số tử vi đầy đủ và chi tiết từ A-Z
Các bước luận đoán lá số tử vi
Để luận đoán lá số tử vi được chính xác và tránh những sai lầm thì ta cần thực hiện theo các bước như sau:
Ngay khi xem lá số quý vị đừng vội đưa ra nghiên cứu và phân tích các cung, các sao càng đừng vội Tóm lại gì cả. Mà hãy quan sát lá số một cách tổng quát, sau đó mới nghiên cứu và phân tích bố cục tổng quan của các cung và các sao .
Đầu tiên phải xét các yếu tố sau
Sau đó phân tích tiếp
Từ sự quan sát bố cục lá số này, cần phải rút ra được:
Chúng ta sẽ đi xem và nghiên cứu và phân tích từng cung một với ưu tiên các cung cường trước theo thứ tự như sau :
Lưu ý:
Lưu ý:
Tham khảo thêm 4 cặp Tam Hợp trong tử vi:
Trong đó:
Ví dụ: Lá số có tam hợp mệnh tương sinh tam hợp cung phu thê
lá số tử vi có tam hợp Mệnh tương sinh tam hợp mệnh Phu thêỞ lá số trên ta có tam hợp cung Mệnh là mệnh Kim, tương sinh với tam hợp mệnh cung Phu thê là mệnh Thủy. Vì vậy ta đoán là người này tối thiểu là nể chồng, chiều và chăm chồng .Sở dĩ không có tam hợp hành Thổ vì trong 4 tam hợp trên đều có hành Thổ làm nền tảng để cho Tứ Sinh ( Dần-Thân-Tỵ-Hợi ) phát nguồn bồi đắp cho Tứ Chính ( Tý-Ngọ-Mão-Dậu ) được không thiếu sung túc để trở thành những hành chính trong tam hợp .Theo Dịch học, hành Thổ là nguồn gốc phát xuất ra các hành khác, rồi tập trung chuyên sâu về lại nguồn cội TW, hành Thổ phối hợp với 4 hành Kim-Mộc-Thủy-Hỏa thành 4 cục diện, là thế tam hợp cơ bản của tử vi Đẩu Số .Nhận xét về bảng Tam Hợp dưới đây sẽ thấy trong mỗi cục diện gồm có 3 hành, tuy khác nhau nhưng cùng liên minh với nhau thành một hành chung, để cùng các cục diện khác tranh đua biến hóa sinh khắc lẫn nhau .Ngoài ra, theo cụ Việt Viêm Tử thì cần phải phân biệt đến hai chiều thuận nghịch theo quy lý âm khí và dương khí của tam hợp cục nữa .
Lấy ví dụ: Người có cung mệnh tại Ngọ trong tam hợp cục Dần-Ngọ-Tuất.
Mệnh cung là chủ thể của cả lá số tử vi. Một số người cho rằng cung Phúc là quan trọng nhất, nhưng không phải vậy. Cung Mệnh mới là cái gốc để xét đoán mọi yếu tố trong lá số .
Khi quan sát cung Mệnh người ta xét các yếu tố sau:
Thông tin có được từ cung Mệnh:
Thế nào là một cung mệnh tốt?
Cung Mệnh tốt là một cung mệnh biểu lộ sự cường vượng, nhưng lại có sự hài hoà với các cung khác .
Như vậy một cung Mệnh tốt thường sẽ có:
Lưu ý : Vì cung mệnh có ảnh hưởng tác động tới nhiều cung khác trong lá số nên mệnh mà có Thất Sát thì thường có tính khắc với thân nhân .
Người ta thường coi cung Phúc là nói về họ hàng của đương số, và phúc phần của đương số .Tôi trong điều tra và nghiên cứu thấy rằng ý nghĩa về họ hàng không được đúng chuẩn lắm. Vì trong một họ có người giàu người nghèo, người tốt kẻ xấu, chênh lệch đã rất nhiều. Anh em lá số còn khác nhau huống chi cả dòng họ .Ý đa phần của cung Phúc là bộc lộ sự như mong muốn, được che chở hay không. Nếu một cung Phúc tốt thì đương số dễ gặp thuận tiện, an nhàn, được quý nhân trợ giúp. Phúc vì tam hợp với Phu Thê nên tất yếu có ảnh hưởng tác động quan trọng tới người chồng, người vợ. Ngoài ra cung Phúc còn có ý nghĩa tương hỗ để xem về con cháu và bản mệnh thọ yểu của chính đương số .Những sao đóng trong cung Phúc có ý nghĩa chỉ ra niềm hạnh phúc và phúc đức của đương số nhờ vào vào điều gì. Như cung Phúc có Đào Hồng sinh vượng thì niềm hạnh phúc có được về tình duyên là rất đáng kể. Nếu Hoá Kỵ ở cung Phúc thì thường phải lao tâm khổ tứ, trắc trở tình duyên .
Cung này chủ tiền tài và các yếu tố tương quan tới tiền tài của đương số. Nó không phải là cung duy nhất quyết định hành động giàu nghèo như nhiều người lầm tưởng .Nó cũng hoàn toàn có thể là một cung chỉ năng lực, năng lượng và việc làm. Bởi vì những thứ này đều tương quan ngặt nghèo tới tiền tài. Ý nghĩa tài bạch không chỉ là tiền, mà bao hàm cả năng lực, năng khiếu sở trường .Cung Tài tốt thì nên có tài tinh như Vũ Khúc Thái Âm Song Lộc, Trù Riêu, Linh Hoả hợp cách …. Có hung tinh cũng hoàn toàn có thể tốt chứ không phải luôn luôn xấu, có điều hung tinh thì kiếm tiền hay dựng nghiệp sẽ khó khăn vất vả hơn người khác. Thêm các sao có tính tích trữ, che giấu thì thường là tốt hơn, vì lộ ra thì dễ bị tranh cạnh .Tài cung toàn sao rực rỡ tỏa nắng sáng sủa nhưng lại không có tài tinh, tài tinh trong lá số bị phá hãm, thì chỉ giàu hình thức bề ngoài mà thực ra nghèo, hay ít của chìm .
Cung này chỉ người hôn phối. lại chỉ cả đặc thù, hiệu quả của mối quan hệ giữa đương số với người khác pháì .Cho nên một cung Phu Thê quá xấu thì kết hôn mấy lần vẫn chẳng được hài lòng. Còn cung Phu Thê tốt thì tuy vẫn hoàn toàn có thể hai lần kết hôn, nhưng đều lấy được người vừa lòng, cảm nhận được niềm hạnh phúc và thuận tiện trong hôn nhân gia đình .Cung Phu Thê không hề xem tách biệt mà phải phối hợp cùng cung mệnh, Nhật Nguyệt và các sao tình duyên để đoán. Tuy nhiên cung này đặc biệt quan trọng có ý nghĩa khi luận hạn, hay xác lập các điểm đặc biệt quan trọng, sự kiện đặc biệt quan trọng về người hôn phối, như năm kết hôn, v.v … .
Hôn nhân ngoài đời rất đa dạng, từ nguyên nhân và hoàn cảnh lấy nhau lẫn đời sống gia đình. Do vậy nếu nhìn một cung Phu Thê xấu cũng chưa đoán quyết được là bỏ nhau, hay sát phu sát thê. Có thể chỉ đơn giản là lúc kết hôn bị nhiều phản đối, chung sống đồng sàng dị mộng…. Người phụ nữ ngoại tình có thể là rất tồi tệ đối với người đàn ông này, nhưng lại là chấp nhận được trong mắt người đàn ông khác.
Cho nên ý nghĩa của cung Phu Thê biến chuyển linh hoạt, tuỳ vào phối hợp trong lá số mà xác quyết .
Tử tức cung không những chỉ về con mà còn nói lên năng lực sinh sản, sinh dục nói chung. Vì lẽ đó mà khi các sao Thiên Hình Kiếp sát Open, thì người mẹ dễ phải phẫu thuật lúc lâm bồn .Cung này được phép tốt hơn cung mệnh hay bất kỳ cung nào trong lá số, theo đúng niềm tin của câu : “ con hơn cha là nhà có phúc ”. Cung Tử tức tốt có nghĩa là các sao đúng cách cục, bộc lộ ý nghĩa thấp nhất là con cháu dễ nuôi, có hiếu, cao hơn thì là con cháu giàu sang làm rạng rỡ tổ tông .Quan niệm truyền thống cuội nguồn thường ưa có quý tinh và phúc tinh trong cung mệnh. Quyền tinh, sát tinh nếu Open nhiều thì hoàn toàn có thể là hoạ, hoàn toàn có thể là phúc, vì nó nếu không chỉ việc khó nuôi con, con hư hỏng thì đe doạ đến một cung mệnh yếu ớt : đây là đứa con khắc cha mẹ .Quý tinh là gì ? Là Nhật Nguyệt sáng sủa, tam hoá, long phượng, cái mã, khôi việt … Phúc tinh thì có Đồng Lương, Thiên phủ, Tứ đức, Quan Phúc, Quang Quý …
Có câu : An cư thì mới lạc nghiệp. Ấy vậy mà người ta lại cứ đi coi Điền là một nhược cung .Cung Điền chỉ nhà cửa, gia tài lớn, sự nghiệp lớn. Thời nào thì thời, quan to tất cái nhà thường cũng phải to, còn người nghèo thì nhà rách nát vách nát, thậm chí còn không có nhà. Thế nên cứ ngắm cung Điền thì biết được nhiều việc về sự phong phú hay nghèo hèn. Các ông quan to, giám đốc, chỉ huy cung Điền phải rất tốt, nếu không thì khó mà tạo dựng được sự nghiệp, có tạo được thì cũng chỉ là khét tiếng suông, không có tiềm năng .
Cung Điền hay nhất là có tài tinh, có sao chủ sự sang trọng đẹp đẽ như Long Phượng Thai Toạ. Ngoài ra nên có sao chủ sự uy nghiêm,
sự hỗ trợ, sự bảo vệ, như Tả Hữu, Quan Phúc… để ý nghĩa về sự nghiêp được tốt đẹp.
Người có cung Điền tốt thì trong sự nghiệp có thể có những đầu tư vào lĩnh vực lớn như xe hơi, bất động sản. Cung điền suy yếu thì dù các cung khác có tốt, cũng chỉ nên làm các lĩnh vực gắn với sản phẩm nhỏ .
Cung này ý nghĩa chính yếu nhất là nói lên việc làm của đương số, những việc làm mà đương số có duyên làm, hoàn toàn có thể làm. Ngoài ra còn có ý nghĩa chỉ cấp trên, cơ quan .Đương nhiên một cung Quan tốt thì việc làm thuận tiện, thuận tiện. Có nhiều sao chủ quyền quý năng lực thì trình độ cao, hoàn toàn có thể có năng lực chỉ huy. Ý nghĩa quyền chức không thực sự quyết định hành động tại đây. Chính vì thế ta thấy ngoài đời có nhiều người chẳng giỏi về trình độ nhưng vẫn có ghế, có quyền thế đàng hoàng, đó là vì các cung như Điền, Di, Mệnh, Nô phối hợp tốt. Trường hợp Quan tốt và các cung kia cũng tốt thì vị thế có được do thực taì. Quan tốt cũng thường là công chức, làm cho chính quyền sở tại, nhà nước. Còn Quan không tốt thì là dân tự do nhiều hơn, và vẫn hoàn toàn có thể thành đạt .Tuỳ vào ngũ hành, tính lý và hình tượng của các sao trong các cung Mệnh Tài Quan mà quyết định hành động về nghề nghiệp, cung Phu Thê hoàn toàn có thể bổ túc thêm với ý nghĩa tạo cách cục, hay chế hoá cho Quan Lộc .Cung Quan còn biểu lộ những gì đương số nhận được từ xã hội, từ người trên, cấp trên, cái này người ta gọi là ” được lộc ”. Chữ Lộc ở đây không chỉ có nghiã hẹp là tiền tài .
Cung này chỉ năng lực thích ứng với xã hội và hoạt động giải trí trong xã hội. Với ý nghĩa đó thì nó sẽ gồm cả : năng lực kết giao bè bạn, chỉ huy, thích ứng hay chỉ huy thực trạng …. Và như vậy rõ ràng là một cung Di tốt sẽ góp thêm phần quan trọng tạo nên thành công xuất sắc của cuộc sống. Người Di tốt thì năng lực giao tế đa phần tốt .Trong một ý nghĩa nhỏ hơn, nó chỉ chung về các hoạt động giải trí chuyển dời, di cư của người đó trong đời. Vì vậy có vai trò quan trọng khi điểm hạn và xem có sống xa quê hay không .Cũng từ các lý luận trên, ta suy ra cung Di tốt là cung Di có nhiều sao chủ sự linh động, bén nhạy, mềm mỏng. Vậy thì Khôi Việt, Nhật Nguyệt, Tấu thư, Xương Khúc, Hoá Khoa … hẳn nhiên là tốt. Một cung Di quá tốt cho đương số lời khuyên : li hương lập nghiệp. Mã Khốc Khách Lộc Trường Sinh là một cách tốt đặc biệt quan trọng cho cung Di .
Có quan điểm cho là Tật ách biểu lộ thực chất con người, còn cung Mệnh chỉ là vỏ ngoài. Lý luận này có nhiều điểm xích míc .Rõ ràng có những người biểu lộ không khác nhiều với thực chất .Do đó cung Tật ách chỉ là chỉ chung về bệnh tật tai ách mà thôi. Ngay cả đám ma thế nào cũng chưa chắc được, cái chết và đám ma không nhất thiết nằm ở cung Tật ách. Tuy cung này không phải là cường cung, nhưng vì bệnh tật và tai ách gây ra nhiều khổ cực, lo ngại cho đương số, nên cung Tật xứng danh được xem xét kỹ càng .Trong cung này, quyền tinh quý tinh gì cũng chẳng quan trọng, chỉ quan trọng về các sao biểu tuợng cho bộ phận khung hình và các phúc thiện tinh. Dĩ nhiên ai cũng muốn khoẻ mạnh và ít tai tật. Vậy thì trong cung này, cần nhất là sự sinh vượng và tránh sát tinh. Chính tinh vượng địa, Quang Quý Quan Phúc Tứ Đức khi nào cũng được nghênh đón. Triệt Tuần tại một cung Tật vô chính diệu cũng là cách tốt .Muốn đoán đơn cử hơn thì từ tượng hình của các sao mà luận, không có gì phức tạp .Có một vai trò bổ trợ khác của cung Tật. Nếu cách của cung Mệnh là người che giấu, hay là người giả dối, thì người ta hoàn toàn có thể suy ra tính cách bản năng của anh ta trong cung Tật ách. Nhưng ý nghĩa này rất mờ nhạt, hiếm khi phải sử dụng .
Phụ mẫu cung hầu hết chỉ vai trò của cha mẹ trong đời sống của đương số, nói hình tượng hơn là ta nhìn cha mẹ của đương số qua lăng kính của chính đương số. Chứ không nhất thiết là nó hoàn toàn có thể cho thấy đúng chuẩn cuộc sống của cha mẹ .Trường hợp cung Phụ mẫu rất đẹp thì thường là cha mẹ khá, tất yếu phải phối hợp với Nhật Nguyệt. Nhưng khi cung Phụ mẫu xấu thì chưa chắc cha mẹ đã kém, mà chỉ là đương số không nhận được tương hỗ của cha mẹ, không được hưởng lộc hay tình yêu từ song thân. Còn có ý nghĩa khác : khắc phụ mẫu .Nằm trong tam hợp Tử Phụ Nô, xung chiếu với Tật ách, Phụ mẫu có công dụng phối hợp để luận giải những cung này .
Huynh đệ cung chỉ số lượng bạn bè, sơ lược về cuộc sống của bạn bè và quan hệ của đồng đội với đương số. Cung này không quan trọng lắm. Nếu có nhiều cát tinh có khi còn là ý nghĩa xấu, bởi như vậy là mất hết tinh hoa của các cung khác .
Cung này chỉ bạn hữu, người dưới quyền, vợ bé. Hoàn toàn không có ý nghĩa : nếu cung Nô vượng cung mệnh suy tức là mình làm tôi tớ cho người khác .Việc mình làm thuê hay mình hèn kém là do các cung Mệnh Tài Quan Điền Di chi phối, chứ không phải từ cung Nô .Cung Nô cần nhất là tính hoà thuận, tương hỗ, nên có Tả Hữu là hợp nhất, không nên gặp hung sát tinh và các sao chỉ bất hoà như Hoá Kỵ, Phá Điếu. Cung này mà nhiều sao tình duyên chứng tỏ đời sống tình ái phong phú và đa dạng, nhiều chi nhiều nhánh, hoặc phóng túng .Sách số nào cũng chỉ khi xem một cung thì phải xem phối hợp : cung chính, hai cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp, toàn bộ là 5 cung cùng một lúc để giải đoán .Có quan điểm còn nhìn nhận thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ suất cho cung chính là quan trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau hết là cung nhị hợp. Sự nhìn nhận này nhằm mục đích phân định được các ảnh hưởng tác động nào là trực tiếp và tác động ảnh hưởng nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được đơn cử và khá đầy đủ hơn .Riêng theo cụ Thiên Lương thì cơ bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai cung tam hợp. Cung nhị hợp ( tương sinh ) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung chiếu ( kìm hãm ) tuyệt đối chính là đối phương .
Trong tử vi 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn bộ các lá số. Mấu chốt của việc luận đoán là cần phải nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh. Nắm bắt được ý nghĩa của 14 chòm sao đồng nghĩa với việc mỗi chúng ta có thể tự mình đọc được cơ bản ý nghĩa của từng cung mệnh trong lá số tử vi. Thông qua những cơ sở này, mới có thể hiểu rõ ý nghĩa của chúng khi vào 12 cung trong lá số tử vi. Dưới đây là ý nghĩa cơ bản của 14 chính tinh:
Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh ắt sẽ cần “ Quần thần củng chiếu ”. Chính vì vậy mà Tử vi nhất định phải được Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục thông thường .Quần thần ở đây là : Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội hợp được Phủ Tướng ắt sẽ can đảm và mạnh mẽ, có tài, có thế. Là tượng của Đề Hoàng nên cần sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng thoáng rộng .Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có tri thức, có trí tài, cũng có năng lực làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì cá thể gặp nhiều cơ hôi, có năng lực ngày càng tăng vị thế .Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người .Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục .Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, so với Chủ tinh có sự trợ giúp rất lớn .
Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.
Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp .Lời bàn : Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, vì vậy nếu được Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ thông thường. Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới có tính năng, nếu đơn lẻ một mình thì công dụng giảm sút, coi như không có .Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì như Tử vi, các sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều chưa ổn .
Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì mưu trí tuyệt đỉnh công phu, có năng lực dụng thành chính nghĩa. Nếu chẳng gặp được cát diệu, và lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với các sao vô lương thì đặc thù của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ so với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt quan trọng nhạy cảm .Hóa Quyền có năng lực tăng cường tình không thay đổi của Thiên Cơ, cũng ngày càng tăng năng lực đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa ngày càng tăng năng lực mưu trí tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt so với Thiên Cơ. Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh thương mại, là kẻ chỉ thích kiếm tiền .Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt .Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự tính, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn .Thiên Cơ vốn được gọi là sao “ Thiện Biến ” vì vậy tình cảm thường đổi khác mạnh, hoặc tư tưởng đổi khác mạnh. Thường là sao biến hóa mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên vì thế rất cần Hóa Quyền để tăng độ không thay đổi. Mà Thiên Cơ lại vốn có thực chất của mưu thần, thế cho nên khá thích hợp với vai trò phụ tá .Lời bàn : Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa hoàn toàn có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, đơn cử là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh nhìn nhận Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có năng lực thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào vào mạng lưới hệ thống các sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải công dụng xấu của 1 số ít sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung .
Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan Lộc .Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng .Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh đêm hôm nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng thông thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại phải xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương .Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm đặc thù quý hiển của Thái Dương, nhưng cần quan tâm là tại xã hội văn minh thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, do đó cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý vậy .Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, bùng cháy rực rỡ mà rất thịnh, có năng lực danh lớn hơn lợi, cũng chưa hẳn là cấu trúc đẹp. Trong cái ánh sáng ấm cúng của Thái Dương, người ta rất tự do. Cho nên cần xem xét kỹ tổng thể các đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm cúng của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy .Thái dương ở trên trời quản lý và vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, do đó Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên các lời bàn về Thái Dương xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “ Quý ”, trước phải có “ Quý ” ( khét tiếng ) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có thực chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ thực chất này .Lời bàn : Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng chỉ thực sự Quý so với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét các phụ tinh hội hợp thì việc đặt ra yếu tố đồi với người sinh ban ngày hay đêm hôm cũng được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có quan điểm rất trong thực tiễn khi gắn với xã hội văn minh, cổ nhân thì cho rằng Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không nhìn nhận cao cái Quan Quý mà lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có niềm tin quảng bác “ cho mà không nhận ”, trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy đống ý với Vương tiên sinh, bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc ép chế, chuyên quyền không phải là không có .
Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành vi kiếm tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán. Rất tốt nếu cư Quan lộc, Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục thân thì không tốt, ngại vì tính cương khắc thái quá. Người Vũ khúc tính cứng rắn, do đó rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng .Sao Vũ Khúc so với Tứ Hóa cũng đặc biệt quan trọng nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên lộc khí càng vượng, cũng hoàn toàn có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ ngày càng tăng đặc thù cương liệt của Vũ khúc vì vậy đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa kỵ, cứng quá ắt gãy, do đó Vũ Khúc – Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó .Người Vũ khúc tính cô khắc, vì vậy cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố ( kho tiền ), hai tài tinh gặp nhau là một sự phối hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp. Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổng hợp khó hoàn mỹ, đa phần là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng. Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là đặc thù nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, nhiều lúc cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc ( đương nhiên Văn Khúc – Hóa kỵ thì càng tệ ) “ tuy nhiên khúc hội ” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần quan tâm trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục. Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, cho nên vì thế không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt. Nhưng Vũ khúc lại có hành vi tương đối hùng vĩ, vì vậy rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp .
Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc tinh, chủ tận hưởng và ý chí .Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được thực trạng tốt 1 số ít ít sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên người ta cũng thêm khó khăn vất vả khó khăn vất vả. Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là không tốt so với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì hoàn toàn có thể tăng cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phong phú song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục xấu. Thiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách cục đặc biệt quan trọng tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn gian nan, có lúc rất khó khăn vất vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là “ vãn vận ” ( vận muộn ), mặc dầu Thiên Đồng được nhìn nhận là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn .
Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh, chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì thành thiện, gặp ác sẽ thành ác. Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu khá lớn, nhất định phải quan tâm cẩn trọng .Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp, tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng hoàn toàn có thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó tránh. Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc ( văn xương, văn khúc ) và Lộc tinh, có năng lực phát huy cái mặt tốt đẹp của Liêm trinh, đó là cách cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn tốt đẹp, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì rất đẹp. Các tổng hợp trên đây gọi là “ Gặp thiện thì theo thiện ”. Liêm trinh chủ về tâm tư nguyện vọng, nếu tốt thì tình cảm đa dạng chủng loại, là người cao nhã vui tính, Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí còn không hề khống chế được tình cảm của chính mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh thâm thúy niềm tin, khi suy đoán cần phải rất là xem xét, đặc biệt quan trọng là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm .
Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, cho nên vì thế cũng cần “ quần thần đồng hội ”, so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng, cũng không có cái can đảm và mạnh mẽ kinh khủng chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về năng lực vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, thì là người hành sự thận trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không có Lộc tinh mà lại gặp được các cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà biểu lộ của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn vất vả, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài. Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì hoàn hảo nhất, do tại xã hội thời nay người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh cung thì dễ tăng trưởng thành gian trá, phù thịnh. Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên phủ gặp cách xấu đặc biệt quan trọng ( gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp vô lương ) còn không dù có gặp “ gian ” cũng chẳng lộ ra là “ gian ” .
Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh đêm hôm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh đêm hôm, nếu người sinh ban ngày và lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp .Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, do đó Thái Âm cũng gồm có ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành vi cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang đặc thù phụ tá. Có lúc lại có năng lực nắm giữ quyền lực tối cao tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa. Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được. Nhưng tổng hợp của Thái Âm không không thay đổi, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm chỉ huy. Nếu lại gặp Sát tinh thì hoàn toàn có thể trở thành trò đùa của quyền lực tối cao. So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất độc lạ so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực. Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự độc lạ giữa Thiên phủ “ thâm trầm ”, khác với Thái Âm là “ Âm Sâm ” ( Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm ) .
Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn hoàn toàn có thể tốt. Nếu được chế hóa, tình dục vật dục đặt được cân đối, và lại được cát tinh hội hợp thì là cao cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm .Hóa Lộc ngày càng tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng. Tử Tham mà được Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa, nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, hoàn toàn có thể làm đại tướng, uy chấn biên cương. Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có năng lực tình dục mạnh, thơ rượu phong phú mà biến thành văn nghệ, thẩm mỹ và nghệ thuật. Nếu không được chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa .Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là “ đổi thang mà không đổi thuốc ” ( chỉ biến hóa cái vỏ vẻ bên ngoài mà thực chất thì không đổi ), mượn màu son phấn để che giấu toan tính. Tham Lang cũng là một tay tiếp xúc đối đáp thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần lớn là ở tửu sắc giàu sang. Cũng đôi lúc thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở trường thích nghi của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu và điều tra nâng cao. Cũng dựa trên đặc thù tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, ngộ Không, cũng với Thiên Hình hoàn toàn có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật và thẩm mỹ của Tham Lang .
Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu .Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới hoàn toàn có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị phi, nghi kỵ .Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu thiệt, thậm chí còn kiện cáo. Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, do đó tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền, cải hóa được Cự Môn, không riêng gì ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn còn hoàn toàn có thể trở thành nghề nghiệp, hoàn toàn có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có đẳng cấp và sang trọng, lại có năng lực truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp thì phong phú không thiếu .Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp tổng thể mọi thứ. Trong đời người hoàn toàn có thể có một quy trình tiến độ gian nan so với lịch trình, hoặc một tiến trình thương tâm so với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng ngôn từ che giấu người khác, bộc lộ là người thao thao bất tuyệt, thích tranh luận. Nếu như cách cục tốt ( Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc ), có tri thức lại có sức miêu tả tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường nói hão. Kỳ thực, tại văn minh, Cự môn được nhìn nhận cao hơn so với cổ đại nhiều lắm, do tại hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh đối đầu tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên cấp dưới tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh động ( bất kể là nói thật hay không thật ). Tóm lại là những người ăn nói rất tốt, tuyệt không hề thiếu Cự môn .
Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh, được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, vì vậy nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính – giúp cho phường hung bạo. Bởi vậy, thực chất của Thiên tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng trọn vẹn chịu thực trạng của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải rất là cẩn trọng .Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên vì thế có thuyết nói rằng “ Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng ” – ( Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật ), có năng lực có cố tật, hoặc thân thể yếu ớt nhiều bệnh tật .Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung ( hai cung bên cạnh bản cung ), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “ Hình Kỵ giáp Ấn ” ( do Thiên Lương là Hình ) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “ Tài Ấm giáp Tướng ” ( Thiên Lương là Ấm ), là một cấu trúc đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn đa phần là xem sự phân bổ của Lục Cát, Lục sát mà đoán định .Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “ không có tính cách ” ( đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh không có tính cách ) .Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng tác động rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp .Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có tác động ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, nhiều lúc lại biểu lộ tính cách không hề làm chủ bản thân, như vẫn nói là “ hình thể giống người mạnh ” ( thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh ) .Thiên Tướng cũng có đặc thù tương tự như như Thiên Cơ. Đều dựa phần lớn vào phụ tá .
Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có đặc thù “ cương khắc cô kỵ ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, do đó cách này là không tốt .Nhưng Thiên Lương cũng có đặc thù của cái bóng che chở, tức là ẤM ( hán việt : Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu ). Ấm ( đặc thù ) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “ tiên phá hậu lập ” ( trước phá đi rồi sau mới lập thành ), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được đặc thù của Thiên Lương. Tuy nhiên, sau cuối thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt .Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu lộ can đảm và mạnh mẽ nhất. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có năng lực phát huy cái tình chất “ ẤM ” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có năng lực tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “ tiêu tai ” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên hoàn toàn có thể hóa khí thành khoa tinh .Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ : Cái ánh sáng sắc tố của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng ?Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng ( đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt ). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm ( thâu nhận vào bên trong ). Nếu như những điều ở trên trọn vẹn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy không thiếu cái tính Hình của Thiên Lương .
Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời. Là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên mặt trận, cho nên vì thế Thất sát mang theo đặc thù cương khắc .Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm sát tinh nữa, thì đời người càng thêm gian nan .Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ ( 1 ), hội Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, hoàn toàn có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ tiên tiến, trong cái sự phân công rất tinh xảo của xã hội tân tiến, người chuyên nghiệp cũng tương tự với khái niệm giầu có .Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là “ hóa sát vi quyền ” ( biết SÁT thành QUYỀN ). Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì giàu sang khỏi phải bàn. Nếu có sát tinh trùng phá, thì năng lực là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp .Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của nhà vua xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, trọn vẹn phụ thuộc vào vào chuyện quân lương mà thành sự, cho nên vì thế mà Thất sát rất cần gặp Lộc ( rất tốt nếu gặp cả song Lộc ). Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, do đó mà Tả Hữu Xương Khúc so với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng so với Thất sát .Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang vậy .( 1 ) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là “ Hóa Thất Sát đích cương khắc, duy Lộc tinh tỵ ” – Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi, nhưng như vậy không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC .
Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất “ chiến tướng ” tương tự như như Thất sát nhưng khác làở chỗ : Thất sát là tướng mà Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao .Bởi Phá quân “ năng công bất năng thủ ” – hợp với thế tiến công hơn phòng thủ, nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính “ động ” nhiều hơi. Dù cho hội được tử vi thì cũng không hề vì vậy mà “ hóa phá vi quyền ” – Tử vi dụng Phá quân thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng tác động đến tính không thay đổi của Tử vi .Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, hoàn toàn có thể bị hình thương trên thân thể .Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải tổ bản tính động. Với Hóa quyền cũng hoàn toàn có thể tương tự như như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc .Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổng hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân hoàn toàn có thể vừa “ công ”, vừa “ thủ ”, gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ .Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ Thất Sát hoàn toàn có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, vì vậy tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi đặc thù không thay đổi của Tử Vi được duy trì .Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc “ chiến tướng bị hao tổn ” thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không hề là người nhàn nhã, lắm ý niệm .
Tả Phù – Dưỡng – Triệt – Hữu Bật – Tuần
Trên bước đường điều tra và nghiên cứu và học hỏi về Tử-Vi, tôi hoàn toàn có thể nói rằng việc giải đóan vận hạn ( tức là Đại Tiểu Hạn ) khó khăn vất vả, phức tạp, nhất là vì ta phải xem xét và phối hợp qúa nhiều yếu tố, mặc dầu trong nhiều sách số có bàn tới góc nhìn này, nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và không được rõ ràng. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì Đại Tiểu hạn gặp sao này bị hạn, gặp sao kia phát lộc, hoặc Đại hạn nhiều sao tốt hơn sao xấu là tốt, hoặc Đại hạn xấu mà Tiểu hạn tốt cũng không hay … như vậy tất cả chúng ta làm thế nào hoàn toàn có thể đi tới Tóm lại và như vậy cũng quá giản dị và đơn giản, thuận tiện và thiếu linh họat, uyển chuyển, trái hẳn với niềm tin Tử-vi .Vi vậy tôi cố gắng nỗ lực thử tiến hành cách giải đoán Đại Tiểu hạn ( trong bài này tôi không đề cập đến Nguyệt và Nhật Hạn vì đi qúa sâu vào cụ thể rất khó khăn vất vả, dễ sai lầm đáng tiếc và dễ bị tuyệt vọng ) nhưng sẽ bỏ lỡ những nguyên tắc thường được các sách nêu ra để cho khỏi rườm rà .
Nếu so sánh với Tiểu hạn thì Đại Hạn dễ giải đoán hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ luân hồi 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các Đại hạn không khi nào giống nhau, vì mỗi Đại hạn ở một cung không trùng nhau như Tiểu hạn ( vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại quay trở lại cung trước ). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn khó tìm hiểu và khám phá vô cùng .Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau ( theo thứ tự ) :
Ghi chú :
Lẽ tất yếu qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngoài những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ đơn cử để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :
Một số nguyên tắc để luận đoán đại hạn
Bàn về Tiểu-Hạn ( tức là vận hạn trong một năm ) qúy bạn sẽ thấy khó khăn vất vả, phức tạp hơn Đại-Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn .Cung Tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung ( Tý, Sửu, Dần, Mão …. ) Như Tiểu hạn mà thật tốt về sự nghiệp, nhưng xem các cung Mệnh, Quan Lộc thấy không báo hiệu sự nghiệp tốt. Đại hạn không phải là Đại hạn sự nghiệp, và Lưu Đại Hạn không báo hiệu sự nghiệp, thì công danh sự nghiệp trong năm Tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh sự nghiệp nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo lắng, do tại Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu, nhị hợp … .Nếu đặt yếu tố nguyên tắc thì Tiểu-Hạn tạm địa thế căn cứ vào các điểm sau ( mà một vài điểm theo quy tắc đã được các sách đã nêu ra ) :
Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng:
Qua những điều tôi trình bày trên đây về Đại-Tiểu Hạn. Quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối và khó khăn rất nhiều, có thể làm ta chán nản. Vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra rồi mới thấy rõ cái hay của Tử-vi, và vì thế tôi thấy học Tử-vi không gì hay bằng chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi, chứ nếu chỉ có học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đóan (mà các sách đã nêu) không thôi, thì chẳng bao giờ có thể giải đoán vững vàng./.
Phần này tôi xin mạn phép không trình diễn trong bài viết này. Vì số lượng giới hạn bài viết không được cho phép. Tôi sẽ tổng hợp lại và update link bài viết lên đây. Mời quý vị theo dõi sau .
Xem thêm:
Sau khi đã nghiên cứu và phân tích, tổng hợp lại cách cục .. thì ta sẽ đi đến Tóm lại sau cuối về mọi mặt của lá số. Theo kinh nghiệm tay nghề của tôi thì ngoài kiến thức và kỹ năng về tử vi đẩu số, thì muốn luận đoán đúng lá số tử vi thì ta cần luận đoán thật nhiều, mỗi lá số sau khi luận đoán ta sẽ thấy điều đúng và chưa đúng. Từ đó rút ra kinh nghiệm tay nghề luận giải cho riêng mình .
Source: https://suanha.org
Category : Phong thủy