Tử Vi tầm thể gia dâu,
Có lòng đoan chính không mầu tà sai.
Thiên Cơ chẳng vắn chẳng dài,
Lòng lành khôn khéo gồm hai đức nghi.
Thái Dương mặt đỏ quang huy,
Tính can mạnh táo có bề gầy khô.
Vũ Khúc bé nhỏ hình thù,
Mộ cung đầu lớn kim khu ai bằng,
Lốt (nốt) ruồi lại mọc quanh mình,
Cương cường nổi tính lợi danh trăm đường.
Thiên Đồng thủy tính từ lương,
Khéo nghề canh cửi mọi đường thanh tao.
Liêm Trinh miệng rộng đầu cao,
Hay tranh cạnh muốn làm sao hơn người.
Nhàn cung Thiên Phủ cao đài,
Miếu viên hình thổ vuông người da đen,
Tính thời cần kiệm khá khen,
Mặt mày thanh tú đức hiền ôn lương.
Thái Âm thủy tính thanh kỳ,
Ở cung miếu vượng ắt thì thêm hay,
Lòng thành tính thẳng ai tầy,
Đã lòng từ thiện lại tay kinh quyền.
Tham Lang miếu vượng thanh truyền,
Lục thao tam lược đồng quyền biết bao,
Hãm thì hình bé chẳng cao,
Khi ra đơn bạc khi vào tà dâm.
Cự Môn khẩu thiệt hoa hâm,
Biến làm đinh sở có tầm phân minh.
Thiên Lương cao cả mộc hình (???),
Lòng lành cẩn thận tính tình từ lương.
Tính kim Thất Sát cương cường,
Mừng mừng giận giận thất thường ai hay,
Kinh quyền sắc sảo khôn thay,
Ruột gan trung trực chật đầy chẳng ngoa.
Phá Quân hiểm trở gian tà,
Hình thê trọng trọc my đà trường khoan,
Da giầy mắt thói trông ngươi,
Ngoài gia hắc hãm bụng thì có lông.
Cứ trong tinh tính ngũ hành,
Suy ra mà đoán tính tình chẳng sai.
Đã suy chính diệu kể bài,
Hoặc đông cung lại suy ngay đoán tường.
Tử Phủ trọng hậu khác thường.
Tham Lang người nhỏ thanh trường tính tham.
Tử (1) phùng Sát, Phá, hiểm thâm,
Mặt ngoài trọng hậu trong lòng gian phi.
Thìn Tuất Tử, Phủ một ly,
Tính hay chấp nhất bán nghi bán hòa.
Liêm Tham Tị Hợi ai qua,
Tính tham thấy của người ta hay mò.
Vũ, Tham đầu nhỏ mình to.
Phá Liêm thô tục sức cho hơn người.
Cự Cơ Dậu thượng thâm môi.
Cơ, Lương, Vũ, Phá là người quyền cương.
Cự Đồng uốn éo lạ nhường.
Cự, Âm hay nói Đồng Lương mỹ miều.
Sát phùng Thiên Hỷ tương giao,
Có bề ôn thuận ai nào biết gan
Lại xem số tình vi thủ Mệnh,
Mà bàn ra tâm tính hình dong.
Số ai Tử Phủ đồng cung,
Rõ ràng vẻ ngọc hào hùng nở nang.
Tử Vi viên mãn tình trang trọng.
Phủ tinh thần nết cũng thuần lương.
Long Trì Phụng Các một đường,
Sinh người cốt cách phi thường tiên nghiên.
Mặt đẹp ấy Khoa Quyền mỹ mạo.
Cách thanh kỳ Khôi Việt uy nghi.
Nhật viên Nguyệt mãn thanh kỳ,
Mắt buông vẻ sáng nghé bì sao Mai.
Sao Tả Hữu cùng nơi Mệnh vị,
Tính ôn lương hình thể bằng hoa.
Kìa người Dương nhận Đà La,
Hình thô tính trá kể là càng dơ.
Người Mệnh hợp sao Cơ sao Vũ,
Ở vượng cung đều có kỳ tài.
Thiên Cơ chẳng vắn chẳng dài,
Dạng người tầm thước tính thời lành ghê.
Vũ Khúc hội một bề cứng thẳng,
Quả quyết lòng tính chẳng hồ nghi.
Thiên Đồng phúc hậu mới kỳ,
Mình thì dầy dặn mắt thì quang minh.
Liêm Trinh dữ muốn tranh với chúng,
Mày thưa mà miệng rộng mặt ngang.
Dữ lành cùng tính Tham Lang,
Miếu thì tràng tủng hãm thì ngoan ngân.
Sao Thiên Tướng tinh thần trì trọng.
Sao Thiên Lương gia ngọc rộng thanh.
Hỏa, Linh, Thất Sát chẳng lành,
Sát nay mắt lớn, Hỏa, Linh giọng khàn,
Linh, Hỏa lại chăn chăn nét mặt.
Kiếp, Không đều xanh ngắt màu gia.
Nói năng phù thuyết ba hoa,
Đầu xanh mái tóc tà tà như mây.
Tính Tham, Hỏa nóng tầy lửa cháy,
Thể Lộc hòa còn tựa hơi xuân.
Lòng gan nết hiểm bất nhân,
Đi ngồi nghiêng lệch Phá Quân hay gì.
Cự Môn đã thị phi lai siểm, (siểm nịnh)
Việc lo lường giấu giếm quanh co.
Khúc Sương phong nhã khôi ngô,
Khúc pha xua nịnh, Sương no tài lành,
Hãm thì xấu sinh vết má,
Giai tham danh gái đã chẳng hay.
Nhỏ lung Hoa Cái đẹp thay.
Hỷ Thần dài cổ bụng nay khoan hòa.
Râu đỏ ấy Kỵ Đà ắt hẳn.
Nói rằng là Dương nhận phải chăng,
Bịnh, Hình nói chẳng hở răng.
Hãm cung Phá, Tuế nói bằng sấm vang.
Tham, Lương thích cao lương mỹ vị.
Riêu, Kỵ say tửu sắc đòi phen.
Lợi tìm Lộc Mã đã quen.
Tấu Thư Thiên Phúc phật tiên mê lòng.
Tuần với Triệt gia không ổn định.
Tuế với Tham xuất tính đa đoan.
Trường Sinh Đế Vượng tính toan làm lành.
Mộ ám tế Thai đa mê hoặc.
Mộc Dục hay trang sức văn hoa.
Suy, Bệnh những khổ trầm kha.
Hóa Lộc với Hóa Quyền đôn hậu.
Ngộ Sát thì hình mạo xấu sao.
Lộc, Cơ linh lợi tài cao.
Dễ lành dễ dữ Tham vào Mã viên (2)
Kiếp Sát xử việc lên dường sóng.
Phá Toái cưu lòng mộng mơ màng.
Một cung Vũ Khúc Tham Lang,
Tiếng cao hình nhỏ lưng càng rộng thênh.
Thiên Đồng gặp Hỏa Linh có tật.
Đà mắt đau Dương nhận thân thương.
Trường Sinh, Quan Vượng giầu sang.
Tử, Tuyệt, Suy, Bệnh một đường khó khăn.
Không chính diệu cô bần kém phúc.
Cát phá hung như ngọc có tì.
(1) Sao Tử (Tuyệt … )
(2) Tham Lang ở cung Ngọ
Cỗi nguồn là Phúc trước suy,
Thứ suy Mệnh, Cục, Thiên Di, Quan, Tài.
Gốc đã vững tuổi dài lộc có.
Cục đương sinh của đủ quan sang.
Kìa người đáo lão vinh xương,
Mệnh Thân đã hảo vận càng hảo thay.
Người một kiếp đã đầy hèn hạ,
Thân Mệnh suy cùng cả hạn suy.
Giáp cung nhiều cách tốt kỳ,
Nhất là Thiên Phủ Tử Vi rỡ ràng,
Giáp Tả Hữu, Khúc Sương, Nhật Nguyệt,
Lộc Khoa Quyền, Khôi Việt càng gia,
Kỵ, Liêm, Phá, Vũ, xấu xa,
Giáp cung Không Kiếp, Kình Đà sao nên,
Dầu Lộc, Vượng, Khoa, Quyền lai củng,
Mệnh không sao vận cũng có tai.
Phúc thay Liêm, Sát giáp Mùi,
Hoặc chung Liêm, Sát hỏa hôi cháy tàn.
Mão đến tị bóng gương Nguyệt tối,
Gặp Lương càng nhiều nỗi gian nan.
Liêm Trinh Tị Hợi cơ hàn.
Thái Âm miếu vượng thanh nhàn thong dong.
Kẻ bần tiện Kiếp, Không Mệnh Phúc,
Người vinh hoa Quyền Lộc Mệnh Thân.
Kìa ai tiền phú hận bần,
Vì chưng Không Kiếp chiếu tuần Vận sau.
Còn trước khó sau giầu những số,
Cung Mệnh Thân Tham Vũ hòa đôi.
Hậu khoan Phụ Bật tính trời.
Nhiều tài nhiều học là người Khúc Sương.
Tài, Di, Quan ba phương Phủ Tướng,
Lại triều viên cách vượng quan gia.
Hay gì hãm địa Hóa Khoa,
Gặp Không Kiếp có quái tà thạch tinh.
Đất Tý, Ngọ, Sửu, Thân Hóa Lộc,
Hoặc Kiếp, Không có cũng như không.
Dần Thân Tý Ngọ bổn cung,
Thất Sát triều đẩu thực vòng giàu sang.
Có Tả Hữu, Khúc Sương, Khôi Việt,
Sát chẳng xung vận hạn đều hay.
Đồng cung Tử Phủ phúc dầy.
Việt Khôi, Tả Hữu chiếu Tài, Thiên Di,
Phủ ở Tuất, Tử Vi ở Ngọ,
Ngôi Công Khanh áo đỏ đai vàng.
Mệnh, Di, Tài, Quan bốn phương,
Khoa Quyền Lộc củng rõ ràng tiếng văn.
Vũ hách dịch Sửu Mùi Thìn Tuất,
Hội Khúc Sương, Tả Hữu, Lộc Quyền,
Thai Phụ, Khoa thủ Mệnh viên,
Ở cung lục hợp thấy Thiên Lộc vào,
Phương Hầu Bá ngôi cao phương diện.
Đối chiếu nhờ Nhật Nguyệt một thung,
Cự, Cơ hội ở Mão cung,
Khúc Sương, Tả Hữu, hội cùng Công Khanh,
Tân, Kỷ nhất, Bính Đinh là thứ,
Dư các cung là ngự bình an.
Sửu Mùi Thìn Tuất Tý phương,
Nổi danh Tướng Tướng Linh Dương Tham ngồi.
Văn hơn là Việt, Khoa, Khôi.
Ngôi ở trên người Lộc Mã đồng cung.
Thai Phụ, Sương, tọa vinh phong.
Danh lừng phiên trấn Mộ phùng Hỏa Tham.
Cự Nhật thủ Quan phong Tam Thiếu.
Tử, Phủ triều thực lộc vạn chung.
Vũ môn biến hóa ngư long,
Khoa Quyền đối chiếu chẳng không mười phần,
Tuổi Ất Bính Đinh Tân phú quý.
Nguyệt Dậu cung Nhật Tỵ triều viên,
Nhà ai phúc lộc vẹn toàn,
Thì sao Tử, Phủ chiếu miền tam phương.
Đất Thìn Tuất Âm Dương đối chiếu,
Hoặc Mùi cung Mão Hợi hợp nhau,
Cách là vượng địa Minh Châu,
Cung Thiềm thỏa bước sang giàu chung thân.
Sát, Phá, Tham, hãm địa phương ngoài.
Đồng, Cơ, Lương, Nguyệt lại thời có danh.
Ngộ Đế tọa Tuất Linh Tinh,
Nguyệt hoa Đoài Khảm, Nhật vành Chấn Ly (1)
Lại thủ hợp cùng Tam Hóa (2)
Rõ Công Hầu gióng giả chẳng ngoa.
Sửu Mùi Nhật Nguyệt Lộc Khoa,
Mệnh Quan phương bá thực là vẻ vang.
Siêu bạt ấy Mã, Lương viễn hãm,
Hoặc Hỏa Linh Không Kiếp chung lành.
Liêm Mùi Thân vượng Mão sinh,
Không gia Tứ sát thanh danh xa đồn.
Thiên Môn (3) Nguyệt, Lôi Môn (4) thì Nhật,
Ngộ Việt Khôi Tả Hữu Khúc Xương,
Ấy người tước lộc giàu sang,
Chớ thêm ác sát chớ vương Kỵ Hình.
Số Bát Tọa hai anh Phụ Bật,
Chốn Sửu Mùi Thìn Tuất đồng viên.
Tể Thân số Lộc, Khoa, Quyền,
Hoặc tam chính chiếu hoặc liền một nơi.
Lương thủ Mệnh ở nơi Ngọ cung,
Đinh, Kỷ sang Quí phú lạ dường.
Chức quan ngôi đến Đài Cương,
Ngọ Dần hai đất Khúc Lương một nhà.
Lại Khúc Khảm Lương Ly tọa thủ,
Nhị phẩm quan chức quý trải qua.
Tài người niên thiếu đăng khoa,
Khúc, Sương, Khoa củng Mệnh gia sao lành.
Đất Tứ Mộ Hỏa Tinh Tham Vũ,
Có uy quyền vị ngộ Kình Dương.
(1) Đoài là cung Dậu, Khảm là cung Tý, Ly là cung Ngọ
(2) Tam Hóa là Khoa Quyền Lộc
(3) Thiên Môn là cung Tuất, Hợi
(4) Lôi Môn là cung Mão
Mệnh Dương phùng Lực bình thường.
Yểu thì Văn Khúc ngộ Thương khá hiềm.
Thân (1) Mệnh vị đã Liêm lại Tướng (Tướng Quân)
Đấng anh hùng vũ dũng ai bằng.
Hợp xung số kẻ tài năng,
Một rằng Cự tú hai rằng Đồng Lương,
Xong phải có tam Phuong Tam Hóa,
Lại gặp bày Tả Hữu củng xung.
Dần Thân Lương hội Thiên Đồng,
Hợp tuổi Canh Giáp lai cùng Dần Thân.
Sao Cự tú Tuất Thìn rất kỵ,
Nhưng là thị thị phi phi.
Hung triền vận hạn nên suy,
Giải hung may gặp Tử (2) thì chẳng hung.
Mã, Lộc hãm Không Vong Tuyệt Bại,
Sợ Kiếp Không hợp Thái Tuế xung,
Giàu tổn thọ khó duyên sinh.
Phù Thân giúp Mệnh hạn hành khác nhau,
Lục Châu thủa lên lầu phải ách,
Thấy Tang Môn Điếu Khách mà lo.
Dã tràng không tội phải tù,
Trong năm Thái Tuế Quan Phù đi qua.
Tham Vũ đất Võng La gặp hạn,
Cung Điền Tang ác sát càng hung.
Vận hành Địa Kiếp Địa Không,
Người hiền có thủa đường cùng khóc vang.
Cung Tị Hợi Khúc Sương tọa thủ,
Yêu nên vì đấy có Liêm Trinh.
Mệnh người chẳng đáng công danh,
Cát tinh chẳng gặp hung tinh lai trùng.
Chập chững ấy Địa Không thủ Mệnh,
Số như thuyền chảy ra khơi.
Kiếp thêm Sát, Kỵ ở nơi Mệnh ngồi,
Sao Không Kiếp sáng soi đến đó,
Dẫu anh hào quý phú ai khen.
Mệnh bà Lã Hậu chuyên quyền,
Lương phùng Lộc, Mã thủ viên rõ ràng.
Sao Văn Khúc, Văn Sương tam hợp,
Nàng Quí Phi sắc đẹp nên yêu.
Nết dâm số gái yêu kiều,
Mệnh cung Thiên Mã Lương chầu không sai.
Số quý hiển Mệnh giai Nhật, Nguyệt,
Có Khúc Sương, Tả Hữu giáp biên.
Sát tinh Mão Dậu đôi miền,
Tử Vi thoát tục, Trinh bèn công ti.
Số vạn thặng tôn cư bậc nhất,
Tả Hữu cùng Thìn Tuất hai phương.
Sao Đại Hao Thiên Lương hãm hạn,
Ác sát thêm đói khó ai qua.
Tuất Thìn Sương, Khúc, Linh, Đà,
Sát gia Mệnh hạn giang hà trầm vong, (3)
Liêm thêm Sát, Kỵ, Kiếp, Không,
Mệnh an Tị Hợi bình bồng bốn phương.
Dương, Linh, Hỏa ở Thân, Mệnh vị,
Hạn gặp hung ải tử (4) xấu sao.
Số hèn chẳng khó thì phiêu, (5) Địa Không đơn thủ hợp nhiều hung tinh.
Nay những số yểu hình rất xấu,
Vì Ngọ cùng Mão Dậu gặp Dương,
Dần Thân Tị Hợi bốn phương,
Đà La hãm xấu ngộ Dương nhận kìa.
Phá Quân miếu đâu bằng Tí Ngọ,
Thủ Mệnh thì tước lộc thêm ban.
Sương, Tham Tị Hợi sá bàn,
Đóng vào cung Mệnh cung Quan càng rầu.
Mệnh Thất Sát như Triều Đẩu đó,
Nơi Dần Thân Tí Ngọ thực hay,
Tam phương như Ngưỡng Đẩu này,
Ở cung Thiên Lộc (Di, Quan???) sao tầy Mệnh cung.
Số Sương, Khúc, Cửu trùng cận quý,
Chốn Sửu Mùi Mệnh tị cát phù.
Mão Thìn Tị dãi Kim Ô, (6)
Dậu cùng Tuất Hợi Nguyệt phô bóng Hằng.
Cung Thê Thiếp chi bằng Hóa Lộc.
Cung Mệnh, Thân, Tướng, Cự, Lương, Trinh,
Cả hai cách ấy điều xinh,
Một đời phú quý an ninh mỹ miều.
Hãm Tị Hợi Vũ đa tài nghệ,
Tham Lang làm đồ tể mà thôi.
Mệnh mình có Lộc mình giàu,
Trong cung tọa thủ sang giàu chung thân.
Song Mão Dậu Dần Thân mới phải,
Tý Ngọ cùng Tị Hợi thì không.
Số người vị liệt Tam Công,
Việt Khôi cung Ngọ ngộ cùng Tử Sương.
Mệnh Vủ Khúc ở phương Tuất Hợi,
Sợ tam phương hợp lại Tham Ân,
Còn như Tham, Hỏa xung lâm,
Chỉ người tuổi Giáp, Kỷ, Nhâm hợp mà.
Sao Tam Hóa nhất là Hóa Lộc,
Vào mộ phương vô dụng sao hay.
Ngọc lành trong đá chi tầy,
Cự Môn Tý Ngọ cách này quý sao.
Lộc một giữ một vào lục hợp,
Giàu lại sang như gấm thêm hoa.
Tử Vi sao quý thay mà,
Tuất Thìn gặp Phá lại là hư danh.
Sương, Khúc, Phá gặp Hình, Kỵ, Sát,
Chốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao.
Mộ trung Vũ Khúc, Tham Lang,
Ngoài ba mươi tuổi giàu sang đùng đùng.
Đồng phản bội ở đầu cung Tuất,
Người tuổi Đinh lại rất vinh tôn.
Tuất Thìn vốn hãm Cự Môn,
Tuổi Tân Hóa Lộc Lộc Tồn cũng yêu (yểu???)
Kim khắc Mộc tốt nhiều cũng xấu,
Ấy Đào, Lương đất Dậu hay chi.
Âm, Dương phản bội thất huy,
Bản cung tam hợp tốt thì cũng nên.
Có âm chất vận đen chẳng hại,
Bàn Mệnh Thân trước phải tính giờ,
cách chung đã đoán sơ sơ,
Nên xem Nữ Mệnh ở trên đoán liền.
(1) Cung Thân
(2) Tử Vi
(3) Chết đuối
(4) Thắt cổ
(5) Phiêu lưu
(6) Thái DươngLê Quang Lăng
Xem thêm: Một Sào Bằng Bao Nhiêu m2
Source: https://suanha.org
Category : Phong thủy