MENU

Nhà Việt

Phục Vụ

24/24

Email Nhà Việt

[email protected]

Đại học Tokyo – Wikipedia tiếng Việt

Đại học Tokyo ( 東京大学 ( Đông Kinh Đại học ), Tōkyō daigaku ? ) viết tắt là Tōdai ( 東大 ( Đông Đại ), Tōdai ? ) [ four ] hay UTokyo [ five ] là trường đại học nghiên cứu công lập ở Bunkyo, tokyo, Nhật Bản, thành lập năm 1877 làm đại học đế quốc đầu tiên và là một trong những trường nổi tiếng nhất Nhật Bản. Trường có mười phân khoa, fifteen khoa nghiên cứu [ six ] và tầm 30,000 sinh viên, 2,100 là sinh viên quốc tế, khuôn viên nằm ở Hongo, Komaba, Kashiwa, Shirokane và Nakano. Trường nằm trong số đại học Nhật Bản hàng đầu có thêm kinh phí theo Dự án đại học toàn cầu của Tỉnh khoa học văn bộ để cải thiện tính cạnh tranh giáo dục toàn cầu của Nhật Bản. [ seven ] Tính đến năm 2018, các cựu sinh viên, giáo sư và nhà nghiên cứu Tōdai có seventeen Nội các tổng lý đại thần, sixteen đắc Giải nobel, barium đắc Giải Pritzker, barium phi hành armed islamic group và một người nhận Huy chương field. [ eight ]
Tòa nhà Luật khoa năm 1902, trước khi bị Đại động đất Quan Đông năm 1923 phá hủy

Đại học Tokyo (東京大学 (Đông Kinh Đại học), Tōkyō daigaku?) viết tắt là Tōdai (東大 (Đông Đại), Tōdai?)[4] hay UTokyo[5] là trường đại học nghiên cứu công lập ở Bunkyo, Tokyo, Nhật Bản, thành lập năm 1877 làm đại học đế quốc đầu tiên và là một trong những trường nổi tiếng nhất Nhật Bản.

Trường có mười phân khoa, 15 khoa nghiên cứu[6] và tầm 30,000 sinh viên, 2,100 là sinh viên quốc tế, khuôn viên nằm ở Hongo, Komaba, Kashiwa, Shirokane và Nakano. Trường nằm trong số đại học Nhật Bản hàng đầu có thêm kinh phí theo Dự án đại học toàn cầu của Tỉnh khoa học văn bộ để cải thiện tính cạnh tranh giáo dục toàn cầu của Nhật Bản.[7]

Tính đến năm 2018, các cựu sinh viên, giáo sư và nhà nghiên cứu Tōdai có 17 Nội các tổng lý đại thần, 16 đắc Giải Nobel, ba đắc Giải Pritzker, ba phi hành gia và một người nhận Huy chương Fields.[8]

Tòa nhà Luật khoa năm 1902, trước khi bị Đại động đất Quan Đông năm 1923 phá hủy

Tōdai do chính phủ Minh Trị thành lập bằng khế ước năm 1877, có tên hiện tại bằng cách hợp nhất các trường y chính phủ cũ, Lâm thị cùng học tập hiện đại, đổi tên thành Đại học đế quốc (帝國大學, Teikoku daigaku) năm 1886, Đại học đế quốc Đông Kinh (東京帝國大學, Tōkyō teikoku daigaku) năm 1897 khi hệ thống đại học đế quốc thành lập. Tháng 9 năm 1923, một trận động đất và hỏa hoạn theo sau phá hủy tầm 700,000 cuốn sách của Thư viện Đại học đế quốc,[9] mất Văn khố Tinh Dã (星野文庫, Hoshino bunko) là bộ sưu tập có khoảng 10,000 cuốn[9][10] từng thuộc về Tinh Dã Hằng trước khi về tay thư viện, chủ yếu về triết học, lịch sử Trung Quốc.

Năm 1947, sau khi Nhật Bản đại bại trong Thế chiến thứ hai trường lấy lại tên gốc, khi hệ thống đại học mới đã quy định năm 1949 thì sát nhập Học hiệu cao đẳng thứ nhất (Khuôn viên Komaba bây giờ) và Học hiệu cao đẳng Tōkyō, từ đấy đảm nhiệm giảng dạy sinh viên năm thứ nhất thứ hai, trong khi giới giáo sư ở khuôn viên chính Hongo phụ trách năm thứ ba, thứ tư.

Tuy thành lập trong thời kỳ Minh Trị, trường đại học có nguồn gốc ở Thiên văn phương (天文方) năm 1684, Sở học vấn Xương Bình Phản (昌平坂学問所) năm 1797 và Ngự dụng hòa giải phiền thư (蕃書和解御用) năm 1811,[11] là các cơ quan chính phủ do Mạc phủ Đức Xuyên (徳川幕府) thành lập (1603-1867), có vai trò quan trọng trong việc nhập khẩu và phiên dịch sách vở châu Âu.

Cúc Trì Đại Lộc là nhân vật quan trọng trong giáo dục Nhật Bản, làm hiệu trưởng đầu tiên của Đại học đế quốc Đông Kinh.

Trong Thế vận hội mùa hè năm 1964, trường tổ chức phần chạy của sự kiện năm môn phối hợp hiện đại.[12]

Ngày 20 tháng 1 năm 2012, Tōdai công bố học kỳ sẽ bắt đầu vào tháng 9 thay vì tháng 4 cho hợp với tiêu chuẩn quốc tế, sẽ thi hành trong các giai đoạn trong vòng 5 năm,[13][14] nhưng kế hoạch phải từ bỏ vì bị chỉ trích mạnh.

Theo The Japan Times, trường có 1,282 giáo sư vào tháng 2 năm 2012, 58 là phụ nữ.[13]

Lần đầu tiên vào mùa thu năm 2012, Đại học Tōkyō mở hai khóa trình dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh cho sinh viên quốc tế, Khóa trình tiếng Anh ở Komaba: Khóa trình quốc tế về Nhật Bản ở Đông Á và Khóa trình quốc tế về Khoa học môi trường.[15][16] Năm 2014, Học viện khoa học ở Tōdai giới thiệu khóa trình chuyển toàn Anh ngữ tên là Khóa trình khoa học toàn cầu.[17]

Đại học Tōkyō tổ chức thành 10 phân khoa[18] và 15 khoa nghiên cứu.[19]

  • Phân khoa Nông nghiệp
  • Phân khoa Văn hóa tổng hợp
  • Phân khoa Kinh tế học
  • Phân khoa Giáo dục học
  • Phân khoa Kỹ thuật
  • Phân khoa Pháp luật
  • Phân khoa Văn học
  • Phân khoa Y học
  • Phân khoa Dược học
  • Phân khoa Lý học
  • Khoa nghiên cứu Nông nghiệp và Khoa học đời sống
  • Khoa nghiên cứu Văn hóa tổng hợp
  • Khoa nghiên cứu Kinh tế học
  • Khoa nghiên cứu Giáo dục học
  • Khoa nghiên cứu Kỹ thuật
  • Khoa nghiên cứu Khoa học sáng thành tân lĩnh vực
  • Khoa nghiên cứu Nhân văn và Xã hội học
  • Khoa nghiên cứu Khoa học thông tin và Công nghệ
  • Khoa nghiên cứu Thông tin học liên ngành
  • Khoa nghiên cứu Pháp luật và Chính trị học
  • Khoa nghiên cứu Khoa học toán học
  • Khoa nghiên cứu Y học
  • Khoa nghiên cứu Dược học
  • Khoa nghiên cứu Chính sách công cộng
  • Khoa nghiên cứu Lý học

Khóa trình Nghiên cứu

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Khoa nghiên cứu Pháp luật Tōdai được xem là một trong các trường luật hàng đầu Nhật Bản, đứng đầu số ứng viên trong Bài kiểm tra luật sư Nhật Bản năm 2009 cùng 2010.[20] Eduniversal xếp hạng các trường kinh doanh Nhật, Phân khoa Kinh tế học Tōdai có hạng bốn ở Nhật Bản (111 trong thế giới).[21]

Đại học Tōkyō được xem là một cơ sở nghiên cứu hàng đầu Nhật Bản, nhận được số tiền tài trợ quốc cấp lớn nhất cho cơ sở nghiên cứu là Tài trợ cho Nghiên cứu khoa học, 40% hơn đại học có tài trợ lớn thứ hai và 90% hơn đại học có tài trợ lớn thứ ba.[22] Số tiền đầu tư tài chính từ chính phủ Nhật ảnh hưởng trực tiếp kết quả nghiên cứu của Tōdai; theo Thomson Reuters, Tōdai là trường nghiên cứu tốt nhất Nhật Bản,[23] đặc biệt với Vật lý (thứ nhất ở Nhật, thứ hai trong thế giới), Sinh học & Hóa sinh (thứ nhất ở Nhật, thứ ba trong thế giới), Dược lý & Độc học (thứ nhất ở Nhật, thứ năm trong thế giới), Khoa học vật liệu (thứ ba ở Nhật, thứ 19 trong thế giới), Hóa học (thứ hai ở Nhật, thứ năm trong thế giới) và Miễn dịch học (thứ hai ở Nhật, thứ 20 trong thế giới).[24]

Trong bảng xếp hạng khác, tờ Nhật kinh vào ngày 16 tháng 2 năm 2004 khảo sát về tiêu chuẩn nghiên cứu trong lĩnh vực kỹ thuật dựa trên Thomson Reuters, Tài trợ cho Nghiên cứu khoa học và các câu hỏi cho chủ tịch của 93 trung tâm nghiên cứu Nhật Bản hàng đầu, Tōdai đứng thứ tư (thứ ba về khả năng kế hoạch nghiên cứu, thứ mười về độ hữu ích của kết quả nghiên cứu, thứ ba về khả năng hợp tác doanh nghiêp-học thuật).[25] Weekly Diamond cũng báo Tōdai có tiêu chuẩn nghiên cứu cao thứ ba Nhật Bản về mặt kinh phí nghiên cứu với mỗi nhà nghiên cứu trong Chương trình COE.[26] Cùng bài, trường có hạng thứ 21 về chất lượng giáo dục theo phí GP mỗi sinh viên.

Tōdai cũng được công nhận vì nghiên cứu về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Tháng 1 năm 2011, Repec xếp khoa kinh tế học Tōdai làm trường nghiên cứu kinh tế tốt nhất ở Nhật Bản,[27] cũng là trường duy nhất trong 100 hàng đầu thế giới.[28] Tōdai có chín hội trưởng của Hiệp hội kinh tế Nhật Bản, số lượng lớn nhất.[29] Tân văn Triêu nhật tổng hợp số lượng bài học thuật trong các tạp chí pháp luật lớn ở Nhật Bản theo đại học, Tōdai đứng đầu trong thời kỳ 2005-2009.[30]

Viện nghiên cứu

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

[31]

  • Viện nghiên cứu Y học
  • Viện nghiên cứu Địa chấn
  • Viện nghiên cứu Văn hóa phương đông
  • Viện nghiên cứu Khoa học xã hội
  • Viện nghiên cứu Khoa học công nghiệp
  • Viện nghiên cứu Sử học
  • Viện nghiên cứu Sinh học phân tử và tế bào
  • Viện nghiên cứu Tia vũ trụ
  • Viện nghiên cứu Vật lý chất rắn
  • Viện nghiên cứu Khí quyển và Đại dương
  • Trung tâm nghiên cứu Khoa học tiên tiến và Công nghệ

Khoa nghiên cứu lý học cùng Viện nghiên cứu địa chấn của trường đều có chân trong Ủy ban Dự đoán địa chấn điều phối quốc gia.[32]

Xếp hạng và danh tiếng

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Đại học Tōkyō (Todai) được xét là trường đại học chọn lọc và nổi tiếng nhất ở Nhật Bản, một trong những trường tốt nhất trong thế giới.[33][34][35]

Theo Bảng xếp hạng nhãn hiệu đại học Nhật Bản do Nikkei BP xuất bản mỗi năm, gồm các dấu hiệu về uy quyền của nhãn, Tōdai đứng thứ hai năm 2009-2010 ở Vùng thủ đô.[36][37] Từ năm 2006-2010, trường đứng thứ nhất trong bảng xếp hạng “Đại học thật sự mạnh mẽ” của Đông dương Kinh tế,[38] trong bảng khác là đại học tốt nhất ở Nhật theo Trường hà hợp dự bị.[39]

Tōdai đứng thứ hai trong thế giới, sau Đại học Harvard theo Mines ParisTech: Bảng xếp hạng Đại học thế giới chuyên nghiệp (2011) đếm số lượng cựu sinh viên giữ chức tổng giám đốc điều hành trong các công ty Fortune Global 500.

Cựu sinh viên Tōdai đặc biệt thành công trong các ngành nghề Nhật Bản, theo bảng xếp hạng năm 2010 của Weekly Economist thì có suất lấy việc cao thứ 12 trong 400 công ty lớn ở Nhật Bản.[55] Thứ hạng thấp là vì nhiều cựu sinh viên đi làm công chức chính phủ, gấp đôi số cựu sinh viên từ bất kỳ đại học nào khác.[56] Thật ra thì cựu sinh viên Tōdai có mức lương trung bình cao nhất ở Nhật Bản theo PRESIDENT.[57]

Bất bình đẳng nam nữ

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Các số liệu nhập học từ Đại học Tōkyō cho thấy 5,267 trong 24,674 sinh viên nội trụ là nữ, tỷ lệ bình đẳng hơn trong các sinh viên quốc tế, có 1,465 nữ sinh trong 3,735 sinh viên.[58] Sự bất bình đẳng nam nữ tỏ rõ hơn trong giới giáo sư, chỉ 7.8% là phụ nữ.[59]

Trong đời sống sinh viên, vài câu lạc bộ không nhận nữ sinh viên, mặc dù trường không tán thành hành vi đó. Trong hơn 30 câu lạc bộ quần vợt ở Tōdai, chỉ hai chấp nhận phụ nữ.[60]

Khuôn viên Hongo

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Khuôn viên Hongo chính gồm tài sản cũ của Họ Tiền Điền, là các lãnh chúa phong kiến thời Giang Hộ của Gia Hạ Quốc. Xích Môn, một trong các cấu trúc địa biểu nổi tiếng của trường, là di tích từ thời đại này. Biểu tượng của trường là lá Bạch quả từ các cây xung quanh khu vực. Khuôn viên Hongo cũng tổ chức Lễ hội tháng Năm hàng năm của trường.[61]

Ao Tam Tứ

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Ao Tam Tứ (三四郎池, Sanshirō ike) ở khuôn viên Hongo bắt nguồn năm 1615. Sau khi Thành Osaka thất thủ, tướng quân tặng ao cùng các vườn bao quanh cho Tiền Điền Lợi Thường, sau khi Tiền Điền Cương Kỷ phát triển thêm vườn thì trở thành một trong các khu vườn đẹp nhất ở Giang Hộ (Tokyo bây giờ), có tám phong cảnh, tám giáp giới truyền thống, nổi tiếng vì tính sáng tạo của ao nhân tạo, đồi và đình. Đương thời biết đến là Ikutoku-en (Vườn Giáo đức), đường viền của ao phỏng theo chữ kokoro hay shin (tâm), vì vậy tên chính thức là Ikutoku-en Shinjiike. Địa điểm thường được gọi là Ao Tam Tứ theo đề tiểu thuyết Tam Tứ của Hạ Mục Thấu Thạch.

Khuôn viên Komaba

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Khuôn viên Komaba, là một trong năm ở Đại học Tōkyō, có Phân khoa Văn hóa tổng hợp, Khoa nghiên cứu Văn hóa tổng hợp, Khoa nghiên cứu Khoa học toán học, các cơ sở nghiên cứu cao cấp cùng các dịch vụ khuôn viên khác, là nơi mọi sinh viên năm một và năm hai ở Tōdai sinh sống. Đại học Tōkyō là trường đại học duy nhất ở Nhật Bản có hệ thống giáo dục phổ thông hai năm trước khi sinh viên được chọn chuyên ngành. Khuôn viên Komaba là nền tảng giáo dục phổ thông và được Tỉnh Khoa học Văn bộ chỉ định làm “trung tâm xuất sắc” cho ba khu nghiên cứu mới. Hiện tại có hơn 7,000 sinh viên (năm một và năm hai) học theo khóa trình phổ thống, 450 sinh viên (năm ba và năm bốn) học chuyên ngành ở Phân khoa Văn hóa tổng hợp và 1,400 sinh viên nghiên cứu học ngành cao cấp.

Khuôn viên Shirokanedai

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Khuôn viên Shirokanedai tương đối nhỏ[62] có Viện nghiên cứu Khoa học y học Đại học Tōkyō hoàn toàn đảm nhiệm học tập cho sinh viên nghiên cứu. Khuôn viên chuyên chú nghiên cứu bộ gen, bao gồm Trung tâm gen người có siêu máy tính lớn nhất trong ngành.[63]

Cựu sinh viên, giáo sư nổi tiếng

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

  • Trường đại học cho ra nhiều người nổi tiếng, bao gồm 15 Thủ tướng.[64] Cựu thủ tướng Miyazawa Kiichi lệnh các cơ quan chính phủ giảm mức tuyển dụng nhân viên theo học ở luật khoa Tōdai xuống dưới 50% vì lo ngại về tính đa dạng của giới công chức.[65]
  • Mười cựu sinh viên đã đắc Giải Nobel:[66]
  1. Kodaira Kunihiko, năm 1954
  2. Itō Kiyoshi, năm 2006
  • Sinh viên Việt Nam
  • Học viện Kỹ thuật Đế quốc
  • Kỹ thuật địa chấn
  • Cúc Trì Đại Lộc
  • Thảo cầm viên Tiểu Thạch Xuyên
  • Thảo cầm viên Nhật Quang
  • Thư viện Đại học Tōkyō
  • Tạp chí Á học Quốc tế xuất bản có Viện nghiên cứu cao cấp về châu Á, Đại học Tōkyō cộng tác

Đường dẫn ngoài

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Năm 1947, sau chi Nhật Bản đại bại trong Thế chiến thứ hai trường lấy lại tên gốc, chi hệ thống đại học mới đã quy định năm 1949 thì sát nhập Học hiệu cao đẳng thứ nhất ( Khuôn viên Komaba bây giờ ) và Học hiệu cao đẳng Tōkyō, từ đấy đảm nhiệm giảng dạy sinh viên năm thứ nhất thứ hai, trong chi giới giáo sư ở khuôn viên chính Hongo phụ trách năm thứ barium, thứ tư. Tuy thành lập trong thời kỳ Minh Trị, trường đại học có nguồn gốc ở Thiên văn phương ( 天文方 ) năm 1684, Sở học vấn Xương Bình Phản ( 昌平坂学問所 ) năm 1797 và Ngự dụng hòa giải phiền thư ( 蕃書和解御用 ) năm 1811, [ eleven ] là các cơ quan chính phủ do Mạc phủ Đức Xuyên ( 徳川幕府 ) thành lập ( 1603-1867 ), có vai trò quan trọng trong việc nhập khẩu và phiên dịch sách vở châu Âu. Cúc Trì Đại Lộc là nhân vật quan trọng trong giáo dục Nhật Bản, làm hiệu trưởng đầu tiên của Đại học đế quốc Đông Kinh. Trong Thế vận hội mùa hè năm 1964, trường tổ chức phần chạy của sự kiện năm môn phối hợp hiện đại. [ twelve ] Ngày twenty tháng one năm 2012, Tōdai công bố học kỳ sẽ bắt đầu vào tháng nine thay vì tháng four cho hợp với tiêu chuẩn quốc tế, sẽ thi hành trong các giai đoạn trong vòng five năm, [ thirteen ] [ fourteen ] nhưng kế hoạch phải từ bỏ vì bị chỉ trích mạnh. Theo The Japan Times, trường có 1,282 giáo sư vào tháng two năm 2012, fifty-eight là phụ nữ. [ thirteen ] Lần đầu tiên vào mùa thu năm 2012, Đại học Tōkyō mở hai khóa trình dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh cho sinh viên quốc tế, Khóa trình tiếng Anh ở Komaba : Khóa trình quốc tế về Nhật Bản ở Đông Á và Khóa trình quốc tế về Khoa học môi trường. [ fifteen ] [ sixteen ] Năm 2014, Học viện khoa học ở Tōdai giới thiệu khóa trình chuyển toàn Anh ngữ tên là Khóa trình khoa học toàn cầu. [ seventeen ]

Đại học Tōkyō tổ chức thành ten phân khoa [ eighteen ] và fifteen khoa nghiên cứu. [ nineteen ]

  • Phân khoa Nông nghiệp
  • Phân khoa Văn hóa tổng hợp
  • Phân khoa Kinh tế học
  • Phân khoa Giáo dục học
  • Phân khoa Kỹ thuật
  • Phân khoa Pháp luật
  • Phân khoa Văn học
  • Phân khoa Y học
  • Phân khoa Dược học
  • Phân khoa Lý học
  • Khoa nghiên cứu Nông nghiệp và Khoa học đời sống
  • Khoa nghiên cứu Văn hóa tổng hợp
  • Khoa nghiên cứu Kinh tế học
  • Khoa nghiên cứu Giáo dục học
  • Khoa nghiên cứu Kỹ thuật
  • Khoa nghiên cứu Khoa học sáng thành tân lĩnh vực
  • Khoa nghiên cứu Nhân văn và Xã hội học
  • Khoa nghiên cứu Khoa học thông tin và Công nghệ
  • Khoa nghiên cứu Thông tin học liên ngành
  • Khoa nghiên cứu Pháp luật và Chính trị học
  • Khoa nghiên cứu Khoa học toán học
  • Khoa nghiên cứu Y học
  • Khoa nghiên cứu Dược học
  • Khoa nghiên cứu Chính sách công cộng
  • Khoa nghiên cứu Lý học

Khóa trình Nghiên cứu [sửa |sửa mã nguồn ]

Khoa nghiên cứu Pháp luật Tōdai được xem là một trong các trường luật hàng đầu Nhật Bản, đứng đầu số ứng viên trong Bài kiểm tra luật sư Nhật Bản năm 2009 cùng 2010. [ twenty ] Eduniversal xếp hạng các trường kinh doanh Nhật, Phân khoa Kinh tế học Tōdai có hạng bốn ở Nhật Bản ( 111 trong thế giới ). [ twenty-one ]
Đại học Tōkyō được xem là một cơ sở nghiên cứu hàng đầu Nhật Bản, nhận được số tiền tài trợ quốc cấp lớn nhất cho cơ sở nghiên cứu là Tài trợ cho Nghiên cứu khoa học, forty % hơn đại học có tài trợ lớn thứ hai và ninety % hơn đại học có tài trợ lớn thứ bachelor of arts. [ twenty-two ] Số tiền đầu tư tài chính từ chính phủ Nhật ảnh hưởng trực tiếp kết quả nghiên cứu của Tōdai ; theo thomson Reuters, Tōdai là trường nghiên cứu tốt nhất Nhật Bản, [ twenty-three ] đặc biệt với Vật lý ( thứ nhất ở Nhật, thứ hai trong thế giới ), Sinh học & Hóa sinh ( thứ nhất ở Nhật, thứ bachelor of arts trong thế giới ), Dược lý & Độc học ( thứ nhất ở Nhật, thứ năm trong thế giới ), Khoa học vật liệu ( thứ barium ở Nhật, thứ nineteen trong thế giới ), Hóa học ( thứ hai ở Nhật, thứ năm trong thế giới ) và Miễn dịch học ( thứ hai ở Nhật, thứ twenty trong thế giới ). [ twenty-four ] Trong bảng xếp hạng khác, tờ Nhật kinh vào ngày sixteen tháng two năm 2004 khảo sát về tiêu chuẩn nghiên cứu trong lĩnh vực kỹ thuật dựa trên thomson Reuters, Tài trợ cho Nghiên cứu khoa học và các câu hỏi cho chủ tịch của ninety-three trung tâm nghiên cứu Nhật Bản hàng đầu, Tōdai đứng thứ tư ( thứ barium về khả năng kế hoạch nghiên cứu, thứ mười về độ hữu ích của kết quả nghiên cứu, thứ barium về khả năng hợp tác doanh nghiêp-học thuật ). [ twenty-five ] weekly diamond cũng báo Tōdai có tiêu chuẩn nghiên cứu cao thứ bachelor of arts Nhật Bản về mặt kinh phí nghiên cứu với mỗi nhà nghiên cứu trong Chương trình COE. [ twenty-six ] Cùng bài, trường có hạng thứ twenty-one về chất lượng giáo dục theo phí general practitioner mỗi sinh viên. Tōdai cũng được công nhận vì nghiên cứu về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Tháng one năm 2011, Repec xếp khoa kinh tế học Tōdai làm trường nghiên cứu kinh tế tốt nhất ở Nhật Bản, [ twenty-seven ] cũng là trường duy nhất trong hundred hàng đầu thế giới. [ twenty-eight ] Tōdai có chín hội trưởng của Hiệp hội kinh tế Nhật Bản, số lượng lớn nhất. [ twenty-nine ] Tân văn Triêu nhật tổng hợp số lượng bài học thuật trong các tạp chí pháp luật lớn ở Nhật Bản theo đại học, Tōdai đứng đầu trong thời kỳ 2005-2009. [ thirty ]

Viện nghiên cứu [sửa |sửa mã nguồn ]

[ thirty-one ]

  • Viện nghiên cứu Y học
  • Viện nghiên cứu Địa chấn
  • Viện nghiên cứu Văn hóa phương đông
  • Viện nghiên cứu Khoa học xã hội
  • Viện nghiên cứu Khoa học công nghiệp
  • Viện nghiên cứu Sử học
  • Viện nghiên cứu Sinh học phân tử và tế bào
  • Viện nghiên cứu Tia vũ trụ
  • Viện nghiên cứu Vật lý chất rắn
  • Viện nghiên cứu Khí quyển và Đại dương
  • Trung tâm nghiên cứu Khoa học tiên tiến và Công nghệ

Khoa nghiên cứu lý học cùng Viện nghiên cứu địa chấn của trường đều có chân trong Ủy ban Dự đoán địa chấn điều phối quốc armed islamic group. [ thirty-two ]

Xếp hạng và danh tiếng [sửa |sửa mã nguồn ]

Đại học Tōkyō ( Todai ) được xét là trường đại học chọn lọc và nổi tiếng nhất ở Nhật Bản, một trong những trường tốt nhất trong thế giới. [ thirty-three ] [ thirty-four ] [ thirty-five ] Theo Bảng xếp hạng nhãn hiệu đại học Nhật Bản practice Nikkei BP xuất bản mỗi năm, gồm các dấu hiệu về uy quyền của nhãn, Tōdai đứng thứ hai năm 2009-2010 ở Vùng thủ đô. [ thirty-six ] [ thirty-seven ] Từ năm 2006-2010, trường đứng thứ nhất trong bảng xếp hạng “ Đại học thật sự mạnh mẽ ” của Đông dương Kinh tế, [ thirty-eight ] trong bảng khác là đại học tốt nhất ở Nhật theo Trường hà hợp dự bị. [ thirty-nine ] Tōdai đứng thứ hai trong thế giới, sau Đại học harvard university theo mine ParisTech : Bảng xếp hạng Đại học thế giới chuyên nghiệp ( 2011 ) đếm số lượng cựu sinh viên giữ chức tổng giám đốc điều hành trong các công ty luck global five hundred .
Cựu sinh viên Tōdai đặc biệt thành công trong các ngành nghề Nhật Bản, theo bảng xếp hạng năm 2010 của weekly economist thì có suất lấy việc cao thứ twelve trong four hundred công ty lớn ở Nhật Bản. [ fifty-five ] Thứ hạng thấp là vì nhiều cựu sinh viên đi làm công chức chính phủ, gấp đôi số cựu sinh viên từ bất kỳ đại học nào khác. [ fifty-six ] Thật radium thì cựu sinh viên Tōdai có mức lương trung bình cao nhất ở Nhật Bản theo president of the united states. [ fifty-seven ]

Bất bình đẳng nam nữ [sửa |sửa mã nguồn ]

Các số liệu nhập học từ Đại học Tōkyō cho thấy 5,267 trong 24,674 sinh viên nội trụ là nữ, tỷ lệ bình đẳng hơn trong các sinh viên quốc tế, có 1,465 nữ sinh trong 3,735 sinh viên. [ fifty-eight ] Sự bất bình đẳng nam nữ tỏ rõ hơn trong giới giáo sư, chỉ 7.8 % là phụ nữ. [ fifty-nine ] Trong đời sống sinh viên, vài câu lạc bộ không nhận nữ sinh viên, mặc dù trường không tán thành hành six đó. Trong hơn thirty câu lạc bộ quần vợt ở Tōdai, chỉ hai chấp nhận phụ nữ. [ sixty ]

Khuôn viên Hongo [sửa |sửa mã nguồn ]

Khuôn viên Hongo chính gồm tài sản cũ của Họ Tiền Điền, là các lãnh chúa phong kiến thời Giang Hộ của armed islamic group Hạ Quốc. Xích Môn, một trong các cấu trúc địa biểu nổi tiếng của trường, là di tích từ thời đại này. Biểu tượng của trường là lá Bạch quả từ các cây xung quanh khu vực. Khuôn viên Hongo cũng tổ chức Lễ hội tháng Năm hàng năm của trường. [ sixty-one ]

Ao tam Tứ [sửa |sửa mã nguồn ]

Ao tam Tứ ( 三四郎池, Sanshirō ike ) ở khuôn viên Hongo bắt nguồn năm 1615. Sau chi Thành osaka thất thủ, tướng quân tặng ao cùng các vườn bao quanh cho Tiền Điền Lợi Thường, sau chi Tiền Điền Cương Kỷ phát triển thêm vườn thì trở thành một trong các khu vườn đẹp nhất ở Giang Hộ ( tokyo bây giờ ), có tám phong cảnh, tám giáp giới truyền thống, nổi tiếng vì tính sáng tạo của ao nhân tạo, đồi và đình. Đương thời biết đến là Ikutoku-en ( Vườn Giáo đức ), đường viền của ao phỏng theo chữ kokoro hay shin ( tâm ), vì vậy tên chính thức là Ikutoku-en Shinjiike. Địa điểm thường được gọi là Ao tam Tứ theo đề tiểu thuyết Tam Tứ của Hạ Mục Thấu Thạch .

Khuôn viên Komaba [sửa |sửa mã nguồn ]

Khuôn viên Komaba, là một trong năm ở Đại học Tōkyō, có Phân khoa Văn hóa tổng hợp, Khoa nghiên cứu Văn hóa tổng hợp, Khoa nghiên cứu Khoa học toán học, các cơ sở nghiên cứu cao cấp cùng các dịch vụ khuôn viên khác, là nơi mọi sinh viên năm một và năm hai ở Tōdai sinh sống. Đại học Tōkyō là trường đại học duy nhất ở Nhật Bản có hệ thống giáo dục phổ thông hai năm trước chi sinh viên được chọn chuyên ngành. Khuôn viên Komaba là nền tảng giáo dục phổ thông và được Tỉnh Khoa học Văn bộ chỉ định làm “ trung tâm xuất sắc ” cho bachelor of arts khu nghiên cứu mới. Hiện tại có hơn 7,000 sinh viên ( năm một và năm hai ) học theo khóa trình phổ thống, 450 sinh viên ( năm bachelor of arts và năm bốn ) học chuyên ngành ở Phân khoa Văn hóa tổng hợp và 1,400 sinh viên nghiên cứu học ngành cao cấp .

Khuôn viên Shirokanedai [sửa |sửa mã nguồn ]

Khuôn viên Shirokanedai tương đối nhỏ [ sixty-two ] có Viện nghiên cứu Khoa học y học Đại học Tōkyō hoàn toàn đảm nhiệm học tập cho sinh viên nghiên cứu. Khuôn viên chuyên chú nghiên cứu bộ gen, bao gồm Trung tâm gen người có siêu máy tính lớn nhất trong ngành. [ sixty-three ]

Cựu sinh viên, giáo sư nổi tiếng [sửa |sửa mã nguồn ]

  • Trường đại học cho ra nhiều người nổi tiếng, bao gồm 15 Thủ tướng.[64] Cựu thủ tướng Miyazawa Kiichi lệnh các cơ quan chính phủ giảm mức tuyển dụng nhân viên theo học ở luật khoa Tōdai xuống dưới 50% vì lo ngại về tính đa dạng của giới công chức.[65]
  • Mười cựu sinh viên đã đắc Giải Nobel:[66]
  • Hai cựu sinh viên được Huy chương Fields hay Giải Gauss:
  1. Kodaira Kunihiko, năm 1954
  2. Itō Kiyoshi, năm 2006
  • Bốn được Giải Kiến trúc Pritzker
  • Sinh viên Việt Nam
  • Học viện Kỹ thuật Đế quốc
  • Kỹ thuật địa chấn
  • Cúc Trì Đại Lộc
  • Thảo cầm viên Tiểu Thạch Xuyên
  • Thảo cầm viên Nhật Quang
  • Thư viện Đại học Tōkyō
  • Tạp chí Á học Quốc tế xuất bản có Viện nghiên cứu cao cấp về châu Á, Đại học Tōkyō cộng tác

Đường dẫn ngoài [sửa |sửa mã nguồn

generator : https://suanha.org
category : Kỹ Thuật Số
Alternate Text Gọi ngay
Liên kết hữu ích: XSMB